1/ Lễ Tạ Ơn thời xa xưa
Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn
bên Âu châu do những nguyên do khác nhau như ăn mừng thắng
trận, mừng mùa gặt hái thành công lớn hay mừng vua vừa được làm bịnh... Nghi lễ
Thanksgiving được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước Mỹ, năm 1578,
khi nhà thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức
lễ này để tạ ơn Trời đã bảo vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy
hiểm trên biển cả.
Có tám quốc gia trên thế giới
chính thức tổ chức lễ Tạ ơn: Argentina, Brazil, Canada, Nhật, Đại
Hàn, Liberia, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ
Truyền thống lấy một ngày hay
một mùa để cảm tạ ơn trên đã có từ thời xa xưa mà tổ tiên chúng ta muốn chứng tỏ
lòng biết ơn của họ , để làm các vị thần bớt nóng giận. Từ đó nghi
lễ cứ tiếp tục..
Tại Hy lạp thời cổ đại,
hàng năm có tổ chức lễ hội để cúng dường Demeter, nữ thần
chăm nom mùa bắp, làm tiệc tùng và nhiều hội để cùng vui với nhau.
Mỗi năm, người La Mã tổ chức
một kỳ lễ hội cho mùa gặt lớn, tên là Cerelia để thờ lạy Ceres với những
trò chơi, diễn hành và lễ lạc
Lễ gặt hái Sukkoth vào
mùa Thu của người Do Thái vẫn còn tồn tại từ ba ngàn năm đến nay
Một trong những biểu tượng của
sự tạ ơn, là cái sừng dê biểu hiệu sự phồn thịnh. Cái sừng tượng trưng
múa màng tốt, là do chuyện thần thoại Hy Lạp: Zeus tặng choAmalthea cái
tù và bằng sừng dê như một cử chi biết ơn bà đã nuôi ông bằng sữa dê lúc
ông còn nhỏ, rằng sừng này sẽ mang lại sự phồn thịnh cho những ai
bà muốn ban phước.
Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn
bên Âu châu có những lý do khác nhau như thắng trận,
mùa gặt hái thành công lớn, vua vừa được làm bịnh...
Nghi lễ Thanksgiving được
tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước Mỹ, năm 1578, khi nhà thám
hiểmMartin Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức lễ này để tạ
ơn Trời đã bảo vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy hiểm trên biển
cả.
2/ Nguyên nhân cuộc du hành
sang châu Mỹ - Tàu Mayflower
Cho đến nửa thế kỷ sau, ngày
26/11/1620, khi một nhóm người di dân Pilgrims từ Âu châu sang Hoa kỳ bằng tàu
Mayflower. Họ gồm102 thực dân người Anh trong số đó có một người đàn bà có
mang, một số thủy thủ khoảng 25-30 người và 35 người rất sùng đạo
Tin lành đã bị vua Jacques đệ nhất đuổi ra khỏi xứ . Họ đặt
tên là nhóm Các Cha hành hương Pilgrim (Pilgrim Fathers hay Pères
Pèlerins) . Đầu tiên , họ thử đến Leyde, Hòa Lan nhưng nhà nước Âu
châu làm họ thất vọng. Tại Anh, có những cuộc nổi loạn tôn giáo làm
lộ ra sự xuống dốc của nền quân chủ và chế độ độc tài Cromwell. Anh quốc bị nạn
chiến tranh 30 năm. Bên Pháp, cũng không hơn gì với sự nhiếp chính của
Marie de Médicis sau khi vua Henri IV bị ám sát... Do đó nhóm người này quyết định
sáng tạo một "Jérusalem mới" ở Mỹ. Lúc đó nữ hoàng Elizabeth đệ
nhất khuyến khích cho dân đến vùng Virginia (tên của nữ hoàng), do người
Anh đô hộ.
3/ Nơi đến không định trước
Các Pilgrims lên tàu vào tháng 9 năm 1620 , trên chiếc Mayflower, một thuyền buồm trọng tải 180 tấn. Cuộc hành trình náo động, lạnh và nguy hiểm. Nước đá lạnh tràn vô tàu khiến mọi người sợ hãi, rồi nơi sàn tàu bằng gỗ xảy ra tai nạn về lửa nên người ta phải ăn thức ăn lạnh. Nhiều hành khác đau bịnh. Trong khi còn trên biển, bàElizabeth Hopkins sinh một con trai mà bà đặt tên là Oceanus. Và sau khi tàu cập bến tại hải cảng Provincetown, thì Susanna White cũng cho ra đời một bé trai, đặt tên là Peregrine (nghĩa là "người đã làm một chuyến du hành"). Chỉ một thủy thủ và một hành khách chết. Sau 65 ngày trên biển lạnh,, vào ngày 21 tháng 11 năm 1620 (theo lịch Julien là ngày 11/11, lúc đó Anh quốc đang dùng) tàu đến Cape Cod, sau cuộc hành trình dài 2750 hải lý (1 mile = 1,852 km). Cap Cod là một bờ biển chưa ai đặt chân tới (sau này là Massachusetts. Tuy biết là đã đi sai đường, nhưng họ phải xuống tàu, và ký ngay ngày hôm đó một hiệp ước sống hòa hợp với dân bản xứ. Đó là Maryflower Compact Act, trong đó ghi những gì phải làm khi định cư. Họ lập một nền dân chủ địa phương hữu hiệu để sau này sẽ mở ra một đại hội, lấy tên là General Court, để bầu những tổng đốc, những viên chức hành chánh, lập ra luật lệ, điều hành thuế má và thành lập các tòa án. Từ năm 1639, thuộc địa càng ngày càng rộng lớn ra, không thể mời tất cả các trại chủ hội họp, nên họ phải bầu người đại diện đi họp thay họ.
4/ Khó khăn lúc đầu
Họ tới Plymouth Rock ngày
11 tháng 12 năm 1620. Vừa xuống tàu là họ ký bản hiệp ước hòa bình
với người dân da đỏ khi vực láng giềng (Narranganset và Wampanoag) .
Có nhiều cuộc chạm trán nho nhỏ, nhưng không quan trọng lắm.
Họ phải đi tìm chỗ ở khá hơn bởi vì lúc đó là mùa đông đầu tiên của họ, một mùa
đông quá lạnh và đầy giông bão .
Sau 6 tháng lên đất liền, thời
tiết khắc khe và thiếu thốn, cùng với bệnh dịch đã làm cho 46 người trong
số 102 người tới nơi chết trước mùa Xuân, trong đó có 14 người vợ (trong số
18 người cả thảy), 13 người chồng (trong số 24 người) . Những người sống sót nhờ
ăn thịt gà tây hoang và bắp do người dân da đỏ cung cấp. May mắn
thay mùa gặt năm 1621 thành công giúp những người di dân sống sót
nên họ quyết định làm lễ Tạ Ơn Trời. William Bradford đã tổ
chức lễ Thansgiving đấu tiên, tháng 11 năm 1621. Họ mời 91 người Mỹ bản xứ
(thổ dân da đỏ) đã giúp họ sống còn cho năm đầu tiên của họ trên đất Mỹ vì
đã cung cấp lương thực và dạy họ trồng bắp và săn thú rừng.
Vài tuần sau, người Da đỏ bắt
đầu lo lắng vì biết là người da trắng sẽ ở lại đó, nên họ cho một nhóm 50
binh sĩ mang một nắm mũi tên gắn với nhau bằng da rắn để tỏ lòng hiếu
khách. Bradford đáp lại thịnh tình đó bằng cách gởi đến người Da đỏ một da rắn
dồn thuốc súng và đạn. Và hoà bình thành lập giữa hai cộng đồng.
5/ Định ngày lễ Tạ Ơn
a) LễTạ Ơn tại Mỹ
Truyền thống kể rằng nhà cầm
quyền Massachussets William Bradford đã định ngày lễ này lần đầu tiên
vào năm 1621, khi làm bữa tiệc chung chia giữa những di dân Mỹ và những
người thổ dân da đỏ khi họ giúp những thực dân sống sót vào những
ngày đầu Ðông
Lễ Tạ Ơn đã được cử hành trên khắp nước Mỹ, nhưng mỗi nơi mỗi khác, tùy phong tục của những người di dân nên ngày lễ không đồng nhất. Nhưng khi các di dân Mỹ bắt đầu đứng lên chống lại đế quốc Anh để giành độc lập và khi George Washington thoát khỏi cuộc bao vây ở Valley Forge, ôngđã tuyên bố ngày lễ quốc gia Thanksgiving đầu tiên vào ngày 26 tháng 11 năm 1789.
Lễ Tạ Ơn đã được cử hành trên khắp nước Mỹ, nhưng mỗi nơi mỗi khác, tùy phong tục của những người di dân nên ngày lễ không đồng nhất. Nhưng khi các di dân Mỹ bắt đầu đứng lên chống lại đế quốc Anh để giành độc lập và khi George Washington thoát khỏi cuộc bao vây ở Valley Forge, ôngđã tuyên bố ngày lễ quốc gia Thanksgiving đầu tiên vào ngày 26 tháng 11 năm 1789.
Đến năm 1830 dân tộc bắt đầu chia
rẽ, các tiểu bang miền Bắc thành lập ngày lễ Tạ Ơn và sau đó
bà Sarah Josepha Hale đi cổ động trên khắp nước Mỹ để có
được một ngày lễ Tạ Ơn đồng nhất cho tất cả các tiểu bang.
Đến khi Nam Bắc
nước Mỹ phân tranh, các tiểu bang miền Nam đòi ly khai, tổng thống AbrahamLincoln lấy ngày
lễ Thanksgiving để nhắc đến công ơn của các di dân Pilgrims đầu
tiên đã dựng nên nước Mỹ. Ông làm tăng thêm ý nghĩa của lễ năm 1863
và định ngày cho lễ này hàng năm vào thứ Năm cuối cùng của tháng 11
Trong nhiệm kỳ của tổng thống Franklin
Delano Roosevelt, vào những năm 1940, là thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến, Quốc
Hội Mỹ đang trong thời kỳ chiến tranh, đã biểu quyết ngày lễ Tạ Ơn là ngày
quốc lễ của toàn thể liên bang để tưởng nhớ tới những công lao những
người đã hy sinh và ông Franklin
Delano Roosevelt quy định lấy ngày thứ Năm của tuần lễ thứ 4 của
tháng 11.
b/ Lễ tạ ơn tại Canada:
Thứ Hai của tuần lễ thứ 2 của
tháng 10
Lễ thanksgiving của Canada đầu
tiên khoảng 43 năm trước khi những người Pilgrim tới Plymouth Rock năm 1620.
Khoảng 1576, một nhà hàng hải người Anh Martin Frobisher cập bến tại Baffin
Island và tính định cư tại đó. Ông làm lễ tạ ơn tại một nơi mà ngày nay có tên
là Newfoundland vì đã sống sót sau chuyến hành trình dài trên đại dương.
Sau đó những người định cư khác đến và những buổi lễ cho những người tới
nơi bình yên tại đây cũng được tổ chức tại Âu Châu trong mùa gặt hái. Về
chuyện mùa gặt làm lễ tạ ơn thì bên Âu châu đã có từ hai ngàn năm trước
6/ Các món ăn:
Ngày xưa, lễ Tạ ơn kéo dài ba
ngày. Tuy nhiên họ không thực sự chỉ ăn gà tây (turkey, dindon) bởi vì chữ
"turkey" lúc bấy giờ dùng để chỉ gà tây, gà, chim cút, chim trĩ
... Chắc chắn là họ không làm bánh nướng nhân bí ngô bởi vì họ không có bột
và đường; và phần đông không ăn khoai tây vì họ cho khoai tây
độc (khoai tây khi nẩy mầm rất độc , đó là khả năng tự vệ của khoai tây chống
lại các côn trùng, nên đừng ăn phần khoai ở chỗ mầm đang nhú).
Ngày nay, trong dịp lễ này
gia đình đoàn tụ. Khách có thể mang theo món ăn cho lễ nhưng nhất là không có
quà cáp
Gà tây: Cho dù những người
hành hương có ăn gà tây hay không cho lễ Thanksgiving đầu tiên, thịt gà
tây luôn luôn được gắn liền với lễ này
Bí đỏ: Là loại rau đã
cứu sống những người hành hương trong mùa lạnh kinh khủng đầu tiên ấy, đã
trở thành món ăn quan trọng gần như thịt gà tây.
7/ Tem cho lễ
Thanksgiving
Năm 2000 được tuyên bố
là năm quốc tế cho lễ Thanksgiving, và ngày đầu năm này, 01/01/2000, ba
văn phòng của Liên Hiệp Quốc ngụ tại New York, Geneva (Thụy Sĩ
), và Vienna (Áo quốc) cùng in ra một loạt tem cho lễ Thanksgiving rất
đẹp. Mọi con tem đều dùnghình dạng của Cornucopia (là cái giỏ chứa
rau quả dạng cái tù và) do hai nghệ sĩ Gabrielle Loire (Pháp) và
Rorie Katz (Hoa Kỳ). Đó là loại tem lớn có kích thước 3 x 4 cm
8/ Hình ảnh của Mayflower
Sau khi rời Plymouth, những
ngày đầu tiên, gió tốt yên lành. Nhưng sau đó mây đen ùn ùn kéo tới từ phía Bắc..
Cơn giông bão bắt đầu. Một trong những hành khách tên William Bradford bị
ngọn khổng lồ sóng quét ra khỏi khoang tàu và được cứu như một phép lạ.
Ông là người thứ 13 ký tờ Mayflower Compact Act và
cũng có mặt trong buổi lễ Tạ Ơn lần đầu. Ông sinh 10 con và
82 cháu. Tưởng tượng nếu như ông buông tay và không được cứu sống
thì sẽ không có hai ông tổng thống Bush và Roosevelt và Humphrey Bogart bởi
vì các vị này là cháu chắt của John Howland và Elizabeth Tilley
(Sưu Tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét