Thứ Sáu, 9 tháng 9, 2011
Năm Sửu Nói chuyện Trâu
Sau khi năm Mậu Tý chấm dứt, thì đến năm Kỷ Sửu được bàn giao từ giờ giao thừa bắt đầu giữa đêm chủ nhựt , 25-01-2009 để cầm tinh đến 24 giờ đêm thứ bảy 13-02-2010. Năm Kỷ Sửu này cũng thuộc hành Hỏa và mạng Tích Lịch Hỏa tức Lửa Sấm Sét, năm này thuộc Âm, có can Kỷ thuộc mạng Thổ và có chi Sửu thuộc mạng Thổ. Căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành, thì năm này "Can tương hòa Chi" Bởi vì, Can = Thổ và Chi = Thổ.
Năm Sửu Nói chuyện Trâu
(Kỷ Sửu từ 26-01-2009 đến 13-02-2010)
Trường hợp này, giống như các năm Kỷ Mùi (1919-1979-2039-2099) có Can Chi tương hòa lại có cùng mạng Thổ giống như năm Kỷ Sửu này hoặc là các năm Nhâm Tý (1912-1972-2032-2092) có Can Chi tương hòa đều có cùng mạng Thủy. Vì vậy, người hay năm Kỷ Sửu này xem như tổng quát rất thuận lợi, bởi vì Trời Đất được giao hòa nhau, không khác trong nhà có đôi vợ chồng sống rất hạnh phúc vậy, cho nên có thể nói là năm được thăng tiến từ vật chất đến tinh thần được vững chắc trong sự nghiệp tương lai. Được biết năm Sửu vừa qua là năm Đinh Sửu thuộc hành Thủy, nhằm ngày thứ sáu, 07-02-1997 đến 27-01-1998.
Căn cứ theo Niên Lịch Cổ Truyền Á Đông xuất hiện được minh định quảng bá từ năm thứ 61 của đời Hoàng Đế bên Tàu, bắt đầu năm 2637 trước Công Nguyên, cho nên chúng ta lấy 2637 + 2009 = 4646, rồi đem chia cho 60 thì có kết quả Vận Niên Lục Giáp thứ 77 và số dư 26 năm bắt buộc rơi vào Vận Niên Lục Giáp thứ78 bắt đầu từ năm 1984 cho đến năm 2043. Do vậy, năm Kỷ Sửu 2009 này là năm thứ 26 của Vận Niên Lục Giáp 78.
Năm Sửu tức Trâu cũng là Ngưu, cho nên trong bàn dân thiên hạ cũng thường nhắc nhở luôn trong sinh hoạt xả hội hằng ngày, từ đó mới có những từ ngữ liên quan, xin trích dẫn như sau :
Sửu là con Trâu đứng hạng thứ 2 của 12 con vật trong Thập Nhị Địa Chi, vì lớn con kình càng, lại còn mang cặp sừng trên đầu nên không thể sánh bằng con Chuột lanh lợi nhỏ con đến trước.
Giờ Sửu = là giờ từ 01 giờ đến đúng 03 giờ sáng hôm sau.
Tháng Sửu = là tháng Chạp của năm âm lịch.
Hoàng Ngưu = Hỏa Ngưu = con Bò.
Thủy Ngưu = Con Trâu.
Ngưu Dương = Trâu Dê.
Ngoài ra, chúng ta còn thấy cây cỏ mang tên Ngưu, xin trích dẫn như sau :
Ngưu hoàng = Vật vàng vàng mà cứng ở trong cái mật con Bò, người ta dùng để làm thuốc trị phong đàm.
Hắc Sửu = là loại cây bìm bìm lông, hột nó đen, dùng để làm thuốc trị hạ nhiệt.
Ngưu bàng tử = Hột cây muồng hoè để làm thuốc trị ghẻ.
Ngưu tất = Rễ cỏ xước dùng để làm thuốc trị chứng bịnh đau gân cốt.
Khiên Ngưu = Loại dây hắc sửu, dùng để làm thuốc trị hạ nhiệt.v.v.
Đặc biệt, có những Ca Dao, Tục Ngữ và Thành Ngữ, xin trích dẫn như sau :
Trâu Bò ở với nhau, quen chuồng quen chỏi ( cây chắn ngang ở cửa chuồng)
Người ở với nhau lâu, inh ỏi đủ điều
Trâu kia kén cỏ bờ ao,
Anh kia, không vợ đời nào có con.
Người ta con trước con sau,
Thân anh không vợ như cau không buồng.
Cau không buồng như tuồng cau đực,
Trai không vợ cực lắm anh ơi!
Người ta đi đón về đôi,
Thân anh đi lẻ về loi một mình.
Mất Trâu thì lại mua Trâu,
Những quân cướp nó có giàu hơn ai.
Trâu Bò được ngày phá đổ,
Con cháu được ngày giổ ông.
Nhịn thuốc mua Trâu,
Nhịn trầu mua ruộng.
Muốn giàu, nuôi Trâu cái,
Muôn lụn bại, nuôi Bồ Câu... (Ca Dao).
Trâu chậm uống nước đục.
Trâu ngơ ăn cỏ héo.
Trâu lành không ai mà cả (trả giá để mua).
Trâu ngả lắm kẻ cầm dao.
Trâu đạp cũng chết, Voi đạp cũng chết.
Trâu hay ác thì Trâu vạt sừng.
Trâu bịnh cũng bằng Bò khoẻ.
Trâu toi thì Bò ngả.
Trâu lấm vẩy quàng.
Trâu trắng đi đâu mất mùa đến đấy.
Trai mười bảy, bẻ gãy sừng Trâu.
Thân Trâu lo, thân Bò liệu.
Có ăn có chọi mới gọi là Trâu.
Thở hơn Trâu hạ địa (Trâu bịnh lâu ngày).
Mua Trâu vẽ bóng.
Máu đâu, Trâu đó.
Không có Trâu, bắt Bò thế, (đi đẩm).
Thà chết vũng chân Trâu, hơn chết khi dĩa đèn.
Tham bong bóng bỏ bọng Trâu.
Thật thà lái Trâu.
Thở như Trâu Bò mới vực (tập kéo xe hay cày bừa)
Trâu Bò húc nhau Ruồi Muổi chết.
Trâu cày, Ngựa cởi.
Trâu chết chẳng khỏi rơm.
Trâu chết mặc Trâu, Bò chết mặc Bò.
Trâu cột ghét Trâu ăn.
Trâu đồng nào ăn cỏ đồng ấy.
Trâu già đâu nệ dao phay.
Trâu nghiến hàm, Bò bạch thiệt (lưỡi trắng).
Trâu tìm cột, cột chẳng tìm Trâu.
Dắt Trâu chui qua ống.
Ngưu tầm Ngưu, Mã tầm Mã.
Thọ hóa thanh Ngưu.
(Cây lâu năm hoá thành Trâu xanh)... v.v. (Thành Ngữ).
Miếng trầu là đầu cậu chuyện,
Con Trâu là đầu cơ nghiệp... v.v (Tục Ngữ).
Xuyên qua Ca Dao, Tục Ngữ và Thành Ngữ có liên quan đến Trâu đã dẫn ở trên kia, chúng ta không thể ngừng ở đây, mà còn thấy rất nhiều sách viết về những huyền thoại Trâu...
Trâu là gia súc, loài nhai lại, trên đầu có cặp sừng hình vòng cung, nó chính là người bạn chân thành của những nhà nông từ xa xưa, đã từng đổ mồ hôi, sót con mắt trên luống cày hay bừa trên thửa ruộng, để cho có những hạt lúa, nương khoai nuôi dưỡng gia đình tộc Việt chúng ta. Ngày nay, nhờ cơ giới hóa có máy cày thay Trâu, nên Trâu bớt cơ cực như ngày xưa. Đối với thời xưa, dân tộc mình xem Trâu là một trong ba việc hàng đầu căn bản cho gia đình và xả hội cần phải sắm, cho nên trong dân gian thường nhắc nhở như sau :
Tậu Trâu, lấy vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy lọ là khó thay!
Ngoài ra, đất nước chúng ta là nông nghiệp, cho nên trong dân gian cũng thường nhắc đến Chồng cày, Vợ cấy, con Trâu đi bừa trên đồng ruộng. Đó chính là hình ảnh thân quen của những nông gia, có đời sống rất chất phát, cần cù lại êm đềm và hạnh phúc trong sự phân công giữa người và Trâu, xin trích dẫn như sau đây:
Rủ nhau đi cấy, đi cày,
Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu,
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy, con Trâu đi bừa.
hoặc là :
Trâu ơi, ta bảo Trâu cày,
Trâu ra ngoài ruộng, Trâu cày với ta,
Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Ta đây, Trâu đấy ai mà quản công,
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng Trâu ăn.
Tại sao Trâu chỉ có một hàm Răng !
Cũng tương truyền thuở xưa rằng : Các loài thú vật bốn cẳng như : Chó, Mèo, Trâu, Cọp ...v.v thì có được hai hàm răng, duy chỉ có con Ngựa dù cũng có 4 cẳng, nhưng chỉ có một hàm răng. Bửa nọ, Ngựa được mời đi dự tiệc, Ngựa nghĩ rằng mình chỉ có một hàm răng ăn rất chậm, nên đi hỏi Chó, Mèo, Cọp ... để mượn hàm răng, thì Chó, Mèo, Cọp ... cũng được mời ăn tiệc, chỉ còn Trâu cũng được mời ăn tiệc, nhưng không muốn đi vì lười, phần làm việc cực nhọc nên thân thể ê ẩm, nên không đi dự tiệc, cho nên Trâu được Ngựa đến năn nỉ và than thân trách phận vì số không có hai hàm răng, rồi hứa chỉ mượn tạm hàm răng của Trâu đi ăn tiệc xong sẽ trả lại liền, còn đền ơn đáp nghĩa cho Trâu. Trâu nghe bùi tai, động lòng nên gỡ cho Ngựa mượn. Sau khi dự tiệc xong, Ngựa thấy có hai hàm răng ăn rất mau và lại ngon miệng, nên động lòng tham, không giữ gìn lời hứa, bèn trốn lánh Trâu để giựt luôn hàm răng. Một hôm Trâu gặp được Ngựa đòi lại hàm răng và mắng chửi Ngựa thậm tệ, Ngựa phóng nước đại chạy trốn mất dạng, Trâu rượt theo một hồi không bắt kịp Ngựa, vì thân thể nặng nề nên rất chậm chạp. Từ đó, Trâu dành nuốt hận cho đến ngày nay, chỉ có một hàm răng, trong khi Ngựa lại có hai hàm răng.
Đó là, nguyên do Trâu ăn cỏ, chỉ có một hàm răng và cày bừa giúp nhà nông trồng lúa. Đây là một trong những tương truyền trong dân gian để răn đời đáng quý !
Tại sao Trâu không biết nói tiếng người và có cái sẹo như nốt ruồi dưới cổ !
Thuở xa xưa, Trâu cùng nói được tiếng với người, nhờ vậy người dùng lời nói để sai khiến Trâu, cho nên bọn mục đồng (chăn Trâu) không thể dùng roi để đánh đập Trâu hay không cho Trâu ăn cỏ đầy đủ, vì sợ Trâu mét chủ. Nhờ vậy, người cùng vật quấn quít và thương mến nhau. Có một gia đình nông dân nọ, có nuôi một con Trâu và mướn một cậu bé để chăn Trâu, thời gian sau nó bỏ bê chăn Trâu, vì mê lo đánh đáo cùng bọn chăn Trâu khác, nhưng sợ Trâu đi ăn lúa, nên nó cột Trâu lại một chỗ không cho ăn uống, cho nên Trâu bị đói, bụng xếp ve, để qua mắt chủ, nó lấy mo cau áp vào bụng Trâu rồi trét bùn bên ngoài. Cứ thế, ngày ngày nó dẫn Trâu về chuồng, người chủ thấy bụng Trâu no tròn thì hài lòng và yên bụng tưởng rằng nó lo cho Trâu cẩn thận chu đáo, có ngờ đâu Trâu thì bị đói cả ngày, không như các ngày vừa qua, chỉ bỏ Trâu đói vài giờ, cho nên Trâu định mách chủ, nhưng Trâu bị nó khôn ngoan, lanh lợi dùng lời lấn áp Trâu, không cho Trâu có dịp nói với chủ. Sáng hôm sau, người chủ vắt Trâu đi cày, Trâu đi không nổi vì đói, nên bị chủ quát : "Mau lên đồ lười". Trâu trả lời : "Không phải lười vì đói" Chủ nói: Ngày nào nó cũng cho mầy ăn một bụng no nê mà đói nỗi gì?. Trâu thố lộ : "Nó chỉ lo mê đánh đáo, rồi nói láo cho tôi ăn no, no gì mà no trong mo cau ngoài đất sét". Người chủ vội vàng kiểm chứng thấy sự thật, khi lột mo cau trét bùn dưới bụng Trâu và đánh cậu bé chăn Trâu một trận nên thân. Từ đó, ngày nào Trâu cũng được ăn no và tắm rửa chu đáo. Riêng cậu bé chăn Trâu, ba bốn ngày hôm sau chỗ bị đánh vẫn còn sưng, cậu bé ngồi khóc trên bờ ruộng, bỗng một ông lão hiện ra hỏi han nguyên do bị đánh, cậu bé trình bày sự thật và ông lão rút trong người ra một nén nhang, rồi đốt lên dí vào cổ con Trâu, làm cho Trâu đau điếng, kêu khan cả cổ, tiếng nói dần dần biến mất, sau cùng khi nào muốn nói, Trâu chỉ phát ra được tiếng "nghé...ọ". Riêng ở chổ bị thương, sau đó trở thành một cái sẹo như nốt ruồi. Từ đó, Trâu sanh ra đều không nói được tiếng người và đều mang cái nốt sẹo ở dưới cổ.
Ngoài ra còn có :
Tục đấu (chọi) Trâu: Tục này xưa kia thường được tổ chức ở một vài nơi như huyện Lập Thạch, Tỉnh Vĩnh Yên hoặc ở Đình Bảng, Hà Đông hay ở Đồ Sơn, Kiến An, cho nên trong dân gian thường truyền tụng để nhớ ngày đấu Trâu như sau :
Dù ai bán đâu, buôn đâu,
Mùng mười tháng tám đấu Trâu thì về.
hoặc là :
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Mùng mười tháng tám nhờ về đấu Trâu.
Đặc biệt, khi nói đến mục đồng(chăn Trâu) ngày xưa, không phải người mục đồng nào cũng nghèo hèn, thất học hết, tối ngày chân lắm tay bùn cơ cực suốt một cuộc đời ở cận kề với Trâu, mà không thể trở thành danh nhân lừng lẩy. Bằng chứng là trong lịch sử đất nước chúng ta có hai danh nhân đã từng là mục đồng. Đó là:
Đinh Bộ Lĩnh thuở nhỏ là người mục đồng, quê ở Hoa Lư, huyện Gia Viễn, Tỉnh Ninh Bình. Sau khi đứng lên dẹp được loạn sứ quân lên ngôi trở thành vua Đinh Tiên Hoàng (năm 968) làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi (chết năm 979).
Trong Đại Nam Quốc Sử diễn ca, có đoạn nói về vua Đinh Tiên Hoàng như sau :
Có ông Bộ Lĩnh họ Đinh,
Con quan Thứ Sử ở thành Hoa Lư,
Khác thường từ thuở còn thơ,
Rủ đoàn mục tử mở cờ bông lau ...
Đào Duy Từ thuở nhỏ cũng là mục đồng, con của Đào Tá Hán làm nghề hát tuồng và Bà Kim Chi là người hiếu học, nên sau được Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên được phong chức Nha Úy Nội Tán, tước Lộc Khê Hầu, Quan Quản nội ngoại quân cơ, Tham lý quốc chánh và Cụ Đào Duy Từ là người đứng ra tổ chúc đắp xây lũy Trường Dục ở huyện Phong Lộc và lũy Định Bắc Trường Thành dọc theo sông Nhật Lệ tục gọi là Lũy Thầy Đồng Hới để ngăn chận hữu hiệu quân Chúa Trịnh...
Tên Năm Thời Gian Hành Gì?
Tân Sửu 19-02-1901 đến 07-02-1902 Thổ
Quý Sửu 06-02-1913 đến 25-01-1914 Mộc
Ất Sửu 25-01-1925 đến 12-02-1926 Kim
Đinh Sửu 11-02-1937 đến 30-01-1938 Thủy
Kỷ Sửu 29-01-1949 đến 16-02-1950 Hỏa
Tân Sửu 15-02-1961 đến 04-02-1962 Thổ
Quý Sửu 03-02-1973 đến 22-01-1974 Mộc
Ất Sửu 20-02-1985 đến 08-02-1986 Kim
Đinh Sửu 07-02-1997 đến 27-01-1998 Thủy
Kỷ Sửu 26-01-2009 đến 13-02-2010 Hỏa
Và nhân đây, xin trích dẫn các ngày Tết nguyên đán kể từ năm Tân Mão 2011 đến năm Quý Mão:
- Tết Tân Mão, nhằm thứ năm, 03-02-2011 *
- Tết Nhâm Thìn, nhằm thư hai, 23-01-2012 **
- Tết Quý Tỵ, nhằm chủ nhựt, 10-02-2013 **
- Tết Giáp Ngọ, nhằm thứ sáu, 31-01-2014 *
- Tết Ất Mùi, nhằm thứ năm, 19-02-2015*
- Tết Bính Thân, nhằm thứ hai, 08-02-2016 **
- Tết Đinh Dậu, nhằm thứ bảy, 28-01-2017 *
- Tết Mậu Tuất, nhằm thứ sáu, 16-02-2018 *
- Tết Kỷ Hợi, nhằm thứ ba, 05-02-2019 *
- Tết Canh Tý, nhằm thứ bảy, 25-01-2020 *
- Tết Tân Sửu, nhằm thứ sáu, 12-02-2021 *
- Tết Nhâm Dần, nhằm thứ ba, 01-02-2022 **
- Tết Quý Mão, nhằm chủ nhựt, 22-01-2023 *
Ghi Chú : Những năm có một dấu * thì Tết có ngày 30, còn những năm có hai dấu ** thì Tết không có ngày 30, nên đón giao thừa vào giữa đêm 29, vì tháng thiếu.
Phụ thêm (Sưu tầm)
Về tính âm dương, 12 con vật được chia xếp thành hai cực âm và dương đứng đan xen nhau, trong đó con trâu (Sửu) thuộc âm. Trong khi kết hợp với thiên can, bao giờ những con vật mang tính chất âm cũng được kết hợp với yếu tố âm và những con vật mang tính chất dương cũng được kết hợp với yếu tố dương của thiên can. Những yếu tố âm của thiên can (còn gọi là thập can) là Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý. Những yếu tố còn lại (Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm) là thuộc dương. Như vậy, Sửu trong địa chi (thập nhị chi) chỉ được kết hợp với: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý. Do đó, chỉ có những năm Sửu là: Ất Sửu, Đinh Sửu, Kỷ Sửu, Tân Sửu và Quý Sửu chứ không thể có những năm Sửu khác. Theo cách tính toán và cách sắp xếp của lịch pháp Trung Hoa cổ đại thì cứ 12 năm lại có một năm Sửu và cứ 60 năm, chu kỳ của một năm Sửu nào đó sẽ được lặp lại như cũ. Chẳng hạn năm 1997 là năm Đinh Sửu thì đến năm 2057 mới lặp lại năm Đinh Sửu một lần nữa.
Người phương Đông đã tìm thấy và đặt tên cho bốn chòm sao, gồm 28 ngôi sao chính gọi là nhị thập bát tú, trong đó có sao Ngưu thuộc chòm sao Huyền Vũ nằm ở phương Bắc, ứng với hành thuỷ, thuộc về mùa Đông. Theo quan niệm của người phương Đông thì sao Ngưu, sao Đẩu là những ngôi sao sáng, rực rỡ. Nó thường được gắn cho những người có trí tuệ trác việt.
(Sưu tầm)
Con trâu trong y học
Con người đã biết rằng “ngưu đậu” là bệnh đậu mọc trên cơ thể trâu, bò không độc bằng đậu mọc trên cơ thể người. Các nhà dịch tễ học đã biết cách trích lấy mủ “ngưu đậu” nhân giống vi trùng đậu, tạo thành vaccine đậu mùa rồi chủng lên cơ thể người tạo ra cơ chế miễn dịch giúp con người đủ sức chống lại sự xâm nhập của vi trùng bệnh đậu mùa. Nhờ phát minh này mà loài người đã thoát khỏi nanh vuốt của tử thần do bệnh “đậu mùa” gây nên.
Nhiều bộ phận của con trâu có thể chế biến để dùng làm thuốc chữa nhiều thứ bệnh cho con người. Da trâu là một ví dụ. Da trâu (ngưu bì), cạo bỏ hết lông, thịt, gân, màng, cắt thành từng miếng, phơi hay sấy khô. Khi dùng, để nguyên bản hoặc chế biến thành keo theo cách ngâm da trâu vào nước vôi trong 1 ngày đêm. Lấy ra, rửa sạch, luộc chín, rồi cắt nhỏ, nấu với nước xâm xấp và sôi liên tục trong một ngày, một đêm. Chắt lấy nước thứ nhất. Thêm nước, tiếp tục nấu để được nước thứ hai, thứ ba. Gộp các nước chắt lại, lọc kỹ, cô cách thủy thành cao đặc. Cao này có tên là cao da trâu hay minh giao, hoàng minh giao, có chứa canxi, gelatin, keratin và protid, có vị mặn, ngọt, mùi hơi tanh, tính bình, không độc, có tác dụng giảm đau, cầm máu, nhuận táo, được dùng trong những trường hợp chữa phong thấp, chân tay đau nhức, đau vú, đái són, động thai, thổ huyết, băng huyết, đái ra máu, chảy máu dạ dày.
Trong Đông y còn có một vị thuốc quí có tên là Ngưu hoàng. Ngưu hoàng là sỏi mật của loài trâu. Sách “Thần nông bản thảo” ghi: ngưu hoàng là vị thuốc chủ trị kinh giản, sốt quá hoá điên cuồng”. Các sách y học khác của Phương Đông đều có bàn đến tác dụng của loại sỏi trong mật trâu: Ngưu hoàng giúp cho tác dụng trấn tĩnh được kéo dài. Ngưu hoàng làm tăng hồng cầu, tăng huyết sắc tố và mạch tim. Loại biệt dược này có tác dụng thanh tâm giải độc chữa hồi hộp khai đờm. Nó là loại thuốc đặc trị các bệnh nhiệt quá phát cuồng thần trí hôn mê trúng phong bất tỉnh, cổ họng sưng đau ung thư đinh nhọt. Ngưu hoàng vị đắng có hơi độc. Do đó Ngưu hoàng có thể làm truỵ thai. Vì vậy với phụ nữ sốt cao thì chỉ các bậc danh y thực sự cao tay mới đủ can đảm sáng suốt dùng đến Ngưu Hoàng.
Cũng theo kinh nghiệm dân gian và trong thực tế, có nhiều thanh thiếu niên chậm phát dục, chiều cao chưa đạt so với tiêu chuẩn bình thường đã được các thầy thuốc Đông y cho bài thuốc: xương trâu, bò, xương dê, xương lợn, xương chó, xương gà mỗi thứ 100g làm sạch, đập vụn, ninh kỹ lấy nước rồi cho gạo vào nấu thành cháo. Ăn 2 lần sáng, tối khi đói bụng. Thuốc có tác dụng làm khỏe gân, xương. Hoặc bài thuốc tủy xương trâu hoặc bò 30g, gạo nếp 100g, đường trắng 50g. Gạo nếp đãi sạch, ngâm nước ấm rồi đổ vào chõ, đặt tủy xương lên trên rồi đồ chín, khi ăn chế thêm đường. Bài thuốc có công dụng bổ thận, ích tủy, thích hợp với thanh thiếu niên thể chất gầy yếu, phát dục chậm, có nguy cơ còi xương. Còn khi chân răng hàm sưng đau, có thể lấy xương hàm trâu đốt đỏ, thả vào nước lạnh. Sau lấy nước ấy đổ thấm vào chỗ răng đau.
Răng trâu (tên thuốc là ngưu xỉ), đốt đỏ hồng, nhúng dấm, đốt nhúng ba lần rồi tán thành bột. Tay chân bị lở loét, trẻ em bị chốc đầu có mủ, dùng bột ấy trộn dầu vừng bôi vào vết lở, vài lần sẽ khỏi. Bột ngưu xỉ, hoà nước sôi, để nguội, cho trẻ động kinh uống giữa hai lần lên cơn, kiên trì nhiều lần sẽ khỏi. Người già răng lung lay, dùng bột ngưu xỉ chà vào, ngậm cho đến khi nước bọt ra đầy miệng thì nhổ ra, súc miệng. Điều trị như thế lâu ngày, răng bớt lung lay, thậm chí có thể chắc trở lại.
Nước dãi trâu (ngưu khẩu tần) cũng là vị thuốc. Lấy nước dãi trâu bằng cách rửa sạch miệng trâu, dùng muối xoa vào hàm trâu, dùng lóng tre nhỏ tráng miệng và chúi mỏm trâu xuống, bên dưới đặt chậu hứng. Lấy bông quấn đầu đũa, thấm nước dãi trâu bôi sâu vào họng người bị đau cuống họng, sẽ khỏi. Người bị cấm khẩu đột biến thì cho uống nước dãi trâu kết hợp với xoa bóp vùng mặt, dùng kim trích máu 10 đầu ngón tay, sẽ nói được.
Đặc biệt, trong Đông y, ngày nay do sừng tê giác quá hiếm nên người ta đã dùng sừng trâu thay sừng tê giác trong điều trị và cho hiệu quả cao. Sừng trâu (thủy ngưu giác) là dược liệu dễ kiếm, hầu như có sẵn ở khắp các vùng nông thôn. Nó đã được sử dụng làm thuốc từ hàng nghìn năm nay. Sách “Danh y biệt lục” viết: Sừng trâu có thể dùng chữa chứng đau đầu do thời khí nóng lạnh thất thường. Còn theo sách “Đại Minh bản thảo”, sừng trâu sắc lấy nước uống có thể trị chứng phong do nhiệt độc và sốt cao.
Y học hiện đại cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về tác dụng chữa bệnh của sừng trâu. Qua kết quả nghiên cứu lâm sàng tiến hành trên 3.270 bệnh nhân tại 50 đơn vị nghiên cứu ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân và Quảng Đông, các nhà khoa học khẳng định việc sử dụng sừng trâu và sừng tê giác cho kết quả điều trị cơ bản như nhau đối với 30 loại bệnh: viêm não B, trẻ nhỏ sốt nóng trong mùa hè, ban xuất huyết do giảm tiểu cầu, thần kinh phân liệt... Như vậy, có thể sử dụng sừng trâu thay thế cho sừng tê giác.
Nguyễn Trung Giang (Đại học Y - Dược Huế)
(TheoVOVnew)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét