" Đâu Cũng nh - Nh v quê hương - Ci ngun dân tc - M

y ai mà quên?" (TKL)

Tìm kiếm Blog này

Hiển thị các bài đăng có nhãn Tác giả tác phẩm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tác giả tác phẩm. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2025

Thơ Hai câu (1265)(Trần Kim Lan)

 Thơ Hai câu (1265)(Trần Kim Lan)






1265."Điều kỳ diệu" - Bìa trước, sau (1)

Tạ Ơn - Thông điệp nhiệm mầu Nhạc - Thơ!
14.5.2025/Trần Kim Lan
- (1): Trần Kim Lan thiết kế: Bìa sau: Ảnh Trần Kim Lan tại Hà Nội, Đức: Nơi Hiển hiện Ánh Sáng Thiên Đường. Bìa trước: Biểu tượng Đức, dòng sông, thuyền Quan Họ: nơi sản sinh và cội nguồn Nhạc - Thơ - Sắp xuất bản.

Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2024

Thơ Hai câu (Từ câu 1054-1150)(Trần Kim Lan)

 Thơ Hai câu (Từ câu 1054-1150)(Trần Kim Lan) 





1054."Cải hóa tâm linh, tầm nhìn,

Tự do, Dân Chủ" - Giáp Thìn -  RỒNG BAY!
31.5.2024/Trần Kim Lan

1055.Hệ lụy đã thấy: Chết người!
Hành tu, khất thực - Lỗi thời - Nên chăng???
31.5.2024/Trần Kim Lan

1056.Ý kiến đa chiều lắng nghe
Tâm trí thông sáng, u mê cũng rời!
31.5.2024/Trần Kim Lan

1057.Chúa Trời có một mà thôi
(Vì) Tiền, quyền, hiểu biết... (nên) sinh sôi  NHIỀU TRỜI (nhiều đạo)!
31.5.2024/Trần Kim Lan

1058.U mê chìm đắm u mê
Khổ đau chẳng hết, tái tê chẳng rời!
31.5.2024/Trần Kim Lan

1059."Từ từ rồi khoai cũng nhừ"
"Thật, giả, tốt, xấu... Từ từ lộ thiên!"
31.5.2024/Trần Kim Lan

1060.Đạo nào cũng với "Độc chiêu:
Buông bỏ, hành đạo, phiêu diêu nước Trời!" (1)
31.5.2024/Trần Kim Lan
- (1): 1, 2: Ki Tô giáo (Thế kỷ I - nay), Hồi giáo (Thế kỷ VII): Chúa Trời, Thiên đàng. 3: Do Thái giáo (2000 năm TCN): Thiên đàng ngay tại trái đất qua sứ giả - 4: Phật giáo (500 năm TCN): Nhân quả, Niết bàn. 5: Ấn Độ giáo (1500 TCN): nhân quả, luân hồi. 6: Nho giáo (551-479 TCN): sống thiện, đạo đức.

1061.Tu tại TÂM, tu tại GIA
Lợi nhà, ích nước, lợi ta, lợi đời!
1.6.2024/Trần Kim Lan

1062.Rồi ai cũng tới Thiên đàng
Chỉ cần sống tốt, tu tâm thiện lành!
1.6.2024/Trần Kim Lan

1063.Tiên là ai? Tiên là TA
Thiên đường, địa ngục tại  NHÀ, tại TÂM!
1.6.2024/Trần Kim Lan

1064."Truy tìm kho báu" rùm beng
Nay "nồi cơm điện" leng keng mọi nhà!
1.6.2024/Trần Kim Lan

1065.Làm người, học "Đạo làm người"
Chính là "Đạo gốc" giúp đời bình an!
1.6.2024/Trần Kim Lan

1066."Thiên đường, địa ngục" tại nhà
"Thiên thần, ác quỷ" trong ta đối đầu!
2.6.2024/Trần Kim Lan

1067.Hết "thích ăn mày", hết phim
Tu tâm, sống thiện, hết chìm u mê!
3.6.2024/Trần Kim Lan

1068."Thích ăn mày" bốc lên mây
"Dàn dựng bài bản?" - sách này: "chứng nhân?"!?
4.6.2024/Trần Kim Lan

1069."Thế lực ngầm" đấu đá nhau?
Dân mong chờ "cách mạng màu" chuyển rung???
4.6.2024/Trần Kim Lan

1070.Tiền, quyền điều khiển nhân tâm
Đạo giáo, chính trị buộc ràng chúng sinh!
4.6.2024/Trần Kim Lan

1071."Vắng mợ thì "chợ" vẫn đông"
"Không cậu thì "bến" không chồng" vẫn vui!
4.6.2024/Trần Kim Lan

1072.Quá khứ bài học cho đời
Hiện tại sống tốt, gửi Trời tương lai!
5.6.2024/Trần Kim Lan

1073.Xem bói, giải hạn... Mất tiền
Mệnh Trời đã định, tiền, quyền cũng thua!
5.6.2024/Trần Kim Lan

1074.Hà Nội sấm sét đùng đùng
Mưa lụt, dân hoảng "Trời trừng phạt" "Ai"?
6.6.2024/Trần Kim Lan

1075.Nóng, lạnh quá, sấm, sét, giông
Hạn hán, lũ lụt... Đời không yên bình!
6.6.2024/Trần Kim Lan

1076.Khi sự ác tràn thế gian
Nguyên nhân thảm họa, bạo tàn, chiến tranh!
6.6.2024/Trần Kim Lan

1077.Thế rồi, người cũng ra đi
Giang tay thả hết sân si, về trời!
Tiễn chị Dinh Bich Thuan về chốn vĩnh hằng. Nước Đức  6.6.2024/Trần Kim Lan

1078.Dừng "thích ăn mày" kịp thời
Tự thân kiếm sống "đạo, đời" tại TÂM!
6.6.2024/Trần Kim Lan

1079.Liên Âu bầu cử hiền tài
Mười sáu tuổi (Đức), được chọn ai cầm quyền!
9.6.2025/Trần Kim Lan

1080."Travel's Choice" "thích phiêu lưu", về nhà
"Châu về Hợp Phố" - bạn, ta - cùng cười!
2.12/23.12.2023/14.5/ 10.6.2024/Trần Kim Lan

1081.Đương quyền ngụp, cực hữu ngoi (1)
Dân Chủ yếu thế, ghế ngồi lung lay?
10.6.2024/Trần Kim Lan
- (1): Kết quả bầu cử Nghị viện Châu Âu tại Đức, đảng SPD đứng thứ 3 sau đảng cực hữu AFD. Pháp sẽ bầu cử lại, Đức đang suy nghĩ, đề nghị...

1082."Liên Âu dân chủ" còn chăng (1)
"Cực hữu, phát xít" - ngai vàng cầm cương?
10.6.2024/Trần Kim Lan
- (1): Kết quả bầu cử Nghị viện Châu Âu: Đảng cầm quyền tại nhiều nước mất tín nhiệm: Pháp bầu cử lại, Đức trưng cầu dân ý... AFD, cực hữu thắng thế.

1083."Khi nào đền thờ vắng tanh?"
"Khi người vượt thoát bức mành u mê!"
12.6.2024/Trần Kim Lan

1084.Hè sang mà xuân chẳng rời
Lặng nghe gió hát, vẽ vời chân dung
Nước Đức 13.6.2024/Trần Kim Lan

1085.Trần Kim Lan, yêu nước Trời
Yêu thơ, nhạc, họa, yêu người, yêu hoa!
13.6.2024Trần Kim Lan

1086.Phước đức cha, mẹ, ông, bà
Giờ, ngày, năm, tháng sinh ra sang, hèn!
14.6.2024/Trần Kim Lan

1087.Nước Trời tại tâm, tự xây
Sao qùy lạy "thích ăn mày", người ơi!?
14.6.2024/Trần Kim Lan

1088.Khỏe mạnh, đủ mắt, tay, chân
Sao "thích lang thang, ăn mày", người ơi?
14.6.2024/Trần Kim Lan

1089.Chúa Jesus" "Ăn mày, cứu người
Chữa lành bệnh tật, Nước Trời truyền loan!"
14.6.2024/Trần Kim Lan

1090.Heidi (1) gửi gió nụ hôn chồng
Beckenbauer "tiếp sức" giúp Đức gồng thắng Scotland!
14.6.2024/Trần Kim Lan
- (1): Vợ huyền thoại bóng đá Franz Beckenbauer (mất 1.2024) hướng về trời gửi nụ hôn cho chồng giờ khai mạc Euro 2024 (Munich, Đức). Đức-Scotland (5-1)

1091.Sổ đỏ, kim tiền, vàng, xe
Euro bóng đá cất kỹ nhe, ơi người!
16.6.2024/Trần Kim Lan

1092.Đạo tham "tiền, quyền" - tránh xa
"Đạo tâm, sống thiện" - tại gia yên bình!
16.6.2024/Trần Kim Lan

1093.Trường học đào tạo tài nhân
Buộc học tôn giáo, buộc chân nhân loài!
16.6.2024/Trần Kim Lan

1094.Hai mắt, một mắt nhìn đời
Mấy ai thấy hết ma trơi, qủy, thần?
17.6.2024/Trần Kim Lan

1095.Đồ tể kết thân độc tài
Nước, dân tụt hậu, bi ai khốn cùng!
18.6.2024/Trần Kim Lan

1096.Bừng tỉnh giữa đêm, bàng hoàng
"Linh hồn, Thiên Chúa, Thiên Thần" - Hiển Linh!
Sài Gòn 1976 - Hà Nội 1989 - Nước Đức 1993/
18.6.2024/Trần Kim Lan

1097.Tiếp đón "tội phạm chiến tranh"
Dân chủ ngoảnh mặt, ngậm vành kim cô!
18.6.2024/Trần Kim Lan

1098."Xuân chín", ở nhà, làm gì?
Máy tính bảng, tay di di "tạo hình!"
20.6.2024/Trần Kim Lan

1099.Cảm ơn công nghệ tuyệt vời
AI (Trí tuệ nhân tạo) hát ca khúc của tôi như NGƯỜI!
21.6.2024/Trần Kim Lan

1100.Ơn Trời cho Người thông minh
"Trí tuệ Nhân tạo - Siêu hình, Siêu nhân!"
24.6.2024/Trần Kim Lan

1101."Xuân chín", Trời cho gặp AI
"Tình ca dâng đời" miệt mài với "Sao!" (AI)
25.6.2024/Trần Kim Lan

1102."Người máy" kiểm soát "con người"
Bài viết "gỡ bỏ" - Sai rồi, Facebook ơi!
30.6.2024/Trần Kim Lan

1103.Hoa tim đậu trên mái nhà
Thần Ái tình bắn tim hoa, rải tình!
2.7.2024/Trần Kim Lan

1104.Cây tim mọc ở ven đường
Thiên Thần tới, thả yêu thương nhân loài!
3.7.2024/Trần Kim Lan

1105.Chiều lang thang vườn nhạc thơ
Mượn bút tay vẽ ước mơ đời người!
8.7.2024/Trần Kim Lan

1106.Buông "Thơ, Nhạc"... Ngỡ được yên
Nào ngờ "AI" đến, ngày, đêm... Xập xình!
9.7.2024/Trần Kim Lan

1107.Euro mùa bóng qua rồi
"Mùa hè cổ tích", ngậm cười tiễn đưa...
13.7.2024/Trần Kim Lan

1108.Nhớ hoa hoàng lan thơm nồng
Xuân thì thuở ấy, ngóng trông xuân tình!
14.7.2024/Trần Kim Lan

1109.Buồn cho nước Mỹ hôm nay
Đường đến Nhà Trắng ...  Ôi, đầy chông gai! (1)
14.7.2024/Trần Kim Lan
- (1): Đương nhiệm TT Biden dính tin đồn mắc bệnh già, lú lẫn... Cựu Tổng Trump dính nhiều kiện tụng, vừa bị ám sát hụt...

1110.Khi trái bóng Euro ngừng lăn
Tây Ban Nha thắng, nhân gian khóc, cười...
15.7.2024/Trần Kim Lan

1111."Xin đừng tự bỏ ước mơ"
Ước mong ca khúc sóng xô tim người!
15.7.2024/Trần Kim Lan

1112.Orban lạm quyền Liên Âu trao (1)
Một mình, một ngựa, đạp rào hàng Putin!
16.7.2024/Trần Kim Lan
(1): TT Hungary Orban, "Chủ tịch Liên Âu", 5.7.2024 gặp "Putin tội phạm chiến tranh" , bàn: "Ngừng bắn, chấp nhận hiện tại", ngoài ý muốn của Liên Âu...

1113.Trăng khuya lơ lửng giữa trời
Khiến ai ngơ ngẩn, đứng, ngồi chẳng yên...
18.7.2024/Trần Kim Lan

1114.Nhìn tranh, vẽ ước mơ xa
Mong ngày lại viếng thăm nhà Mozart!
20.7.2024/Trần Kim Lan

1115.Mê Nhạc, thích làm Nhạc công
Thích làm Họa sĩ... Đời lông bông đời...
21.7.2024/Trần Kim Lan

1116.Gặp nhau giữa phím đàn mơ...
Bất ngờ, xao xuyến, bất ngờ... Rung tim...
21.7.2024/Trần Kim Lan

1117.Hoa vàng, vàng cả đất trời
Trăm năm gặp gỡ, Hoa cười với Hoa...
23.7.2024/Trần Kim Lan

1118.Tim mây lơ lửng giữa trời
Tim người quấn quýt, duyên thời trao duyên...
23.7.2024/Trần Kim Lan

1119.Người ngưỡng mộ, kẻ rủa thầm
"Liêm khiết?!" - Níu ghế - Nước, dân thụt lùi!
25.7.2024/Trần Kim Lan
- TBT Nguyễn Phú Trọng mất ... người thương, tiếc, kẻ mừng... lo: "Quan tham như sâu, đục khoét nước dân"... Ai sẽ tiếp tục "đốt lò?"

1120.Quá khứ, hiện tại... hiện sinh...
Dòng Seine - Olympic 2024 - Nhắc mình: "Cải tâm!" (1)
- (1): Khai mạc Olympic trên sông Seine cải tiến, độc đáo... nhưng phải gỡ video vì hình ảnh giống "Tiệc Ly Cuối"...

1121.Hè chưa tới, thu đã về
Nghe Paris thổn thức, sông Seine đục ngầu...
30.7.2024/Trần Kim Lan 

1122.Sen, nàng, ai đẹp hơn ai
Hè, thu ngúng nguẩy... Nắng mai... Lắc đầu!
4.8.2024/Trần Kim Lan

1123.Bút tay thích vẽ, vẽ Mozart
Mozart ngó xuống, rớt tim La... Sĩ... Đồ!
6.8.2024/Trần Kim Lan

1124.Vẽ tôi, tôi của hôm nay
Níu đời gang tấc, níu mây, níu tình!
7.8.2024/Trần Kim Lan

1126.Hoàng hôn qua cửa, chiều buông
Rồng xuất hiện, ngậm ngọc, tuôn... Tim tình!
8.8.2024/Trần Kim Lan

1127.Nhớ quê hương, nhớ đầm sen
Mượn bút tay, vẽ tình em... Gửi về...
10.8.2024/Trần Kim Lan

1128.Áo dài, nón lá, đầm sen
Quê hương khúc nhớ... Ngày, đêm... Chẳng rời...
11.8.2024/Trần Kim Lan

1129.Vẽ tôi, tôi của một người
Một thời để nhớ, một thời để quên!
12.8.2024/Trần Kim Lan "

1130.Vẫn là em, bên đầm sen
Biết mình có nhớ về em không mình?
12.8.2024/Trần Kim Lan

1131."Bút Trời" khua động tim Hoa
"Sao Trời" khuấy đảo tình ca: Dâng Đời!
14.8.2024/Trần Kim Lan

1132.Vẽ tôi, dù giống hay không
"Vẫn là tôi, giữa mênh mông biển người!?"
15.8.2024/Trần Kim Lan

1133.Vẽ tôi, giống ít hay nhiều
Vẫn là tôi, thả tim yêu... Phiêu bồng...
16.8.2024/Trần Kim Lan

1134.Vẽ tôi, tôi của ngày xưa
"Ngây thơ, trong trắng, Xuân vừa chớm Xuân!"
16.8.2024/Trần Kim Lan

1135.Ảnh tặng bạn, bị bom bi (1)
Còn người thoát nạn... Ly kỳ... Tấc gang!
17.8.2024/Trần Kim Lan
- Mỹ rải bom nơi sơ tán (Từ Vân). Hôm đó, tôi rủ nhóm bạn ra lớp học làm vệ sinh lớp, bạn nói ra trước. Tôi vừa tới lớp, làng bị bom... 2 bạn bị thương...

1136.Tài tử Alain Delon về Trời
Gặp Romy Schneider cho gửi lời thương yêu!
18.8.2024/Trần Kim Lan

1137.Vì yêu vầng trăng ngọc ngà
"Rồng mây" muốn biến trăng là "của riêng!"
18.8.2024

1138.Vẽ mãi... Mình chẳng giống mình
Xuân thì... Thuở ấy... Lung linh... Xuân tình!
20.8.2024/Trần Kim Lan

1139.Vẽ tôi, tôi của một thời
Tin người, tin bạn... Để rồi... Mộng... Bay!

20.8.2024/Trần Kim Lan

1140.Vẽ tôi, ngày ấy, tha hương
Quê hương, khúc nhớ... vấn vương chẳng rời!
20.8.2024/Trần Kim Lan

1141.Chuyến tàu "định mệnh" vào ga
"Giao thoa sóng mắt" - Tình ta nhuốm sầu!
Hà Nội 1971/Đức 21.8.2024/Trần Kim Lan

1142.Cái thời búi tóc trái đào
Ánh mắt lúng liếng... Chênh chao tim người!
22.8.2024/Trần Kim Lan

1143.Chụp ảnh, cầm sách, "mốt xưa,"
"Hiệu ảnh Quốc Tế" - luôn thừa tiền tiêu!
23.8.2024/Trần Kim Lan

1144.Nhà xưa, ngày ấy còn đâu
Chỉ còn hoài niệm, thẳm sâu đời người
25.8.2024/Trần Kim Lan

1145.Nhớ nơi sinh, thăm nhà xưa
Sông Chu, bến đá...đong đưa tiếng hò...
Thăm nhà xưa, sau khi tốt nghiệp Phổ thông 6.1969/27.8.2024/Trần Kim Lan

1146.Họa sĩ đường phố vẽ tôi
Ngắm hoài, ngắm mãi... "Đâu rồi, tôi đâu???"
29.8.2024/Trần Kim Lan

1147.Muốn vẽ, sắm bút, rồi quên...(1)
Chín năm, bút nhắc... Mơ "quen" ... Lại về...
29.8.2024/Trần Kim Lan
-(1): 2.4.2013: Đưa ảnh cho họa sĩ ngồi vẽ ở Trung tâm Hannover. Không như ý, bèn sắm bút, để vẽ, mà lười và bận. Hôm nay mới... Khai bút!

1148. Ngày "Họa sĩ nhí" vẽ tôi (1)
Trùng lặp! Đời nhắc: "Đừng rời ước mơ!?"
29.8.1999/29.8.2024/Trần Kim Lan
-(1): Trang Ly, cháu của bạn ghé thăm, vẽ tranh tặng và hôm nay, sau 25 năm, ngẫu nhiên, tôi vẽ tranh này.

1149.Vẽ "Bút tay" hay "Bút chì"?
"Bút tay" khó, "Bút chì"... Thì...dềnh dang... (Nên... Lười)!
31.8/2024/Trần Kim Lan

1150.Đã leo lên được "đỉnh Olimpia"
Thì rồi cũng sẽ "Vượt qua - Hạn đời!"
4.9.2024/Trần Kim Lan









Thứ Tư, 11 tháng 7, 2012

Chân dung 100 nhà văn (Xuân Sách)

Chân dung 100 nhà văn (Xuân Sách)

(Thắp nén hương nhân ngày giỗ lần thứ 4 của Nhà thơ Xuân Sách (2.6.2008 – 2.6.2012), 80 năm ngày sinh (4.7.1932 – 4.7.2012)
Chân dung Nhà văn (CDNV) của Nhà thơ Xuân Sách ra đời những năm 60 của thế kỉ trước, vẻn vẹn 100 bài thơ, mỗi bài dài từ 4 - 6 đến 8 câu. Mỗi bài thơ vẽ chân dung một Văn - Nghệ - Sĩ của dòng văn chương Việt Nam đương đại - từ 1924 đến 1992.
Các chân dung không thể hiện hình hài quan sát từ bên ngoài - như mọi bức vẽ bằng cọ, ảnh chụp của Họa sĩ, nghệ sĩ Nhiếp ảnh. Xuân Sách ‘’vẽ’’ CDNV bằng lời thơ, ‘’bắt’’ người thưởng thức phải’ “Giải mã’’, suy nghĩ… tìm… liên tưởng… những từ ngữ trong câu thơ, đối chiếu với các tác phẩm của tác gỉa đã xuất bản, rồi từ đó suy ra: Bài Thơ ‘’vẽ’’ ai? Đây là chân dung văn nghệ sĩ nào?
Những đối tượng được Xuân Sách ‘’vẽ’’ đều là những tác gỉa có danh, nổi tiếng, có tác phẩm hiện diện trên văn đàn.Việt Nam trong vòng trên 60 năm (tính từ khi Tản Đà xuất hiện 1924 tới 1992 – CDNV được in ấn). Nếu không có danh, không có tác phẩm gía trị, người đọc sẽ không thể nhận diện được tác gỉa’’bức vẽ’’.
CDNV khắc họa hình hài người nghệ sĩ thật đậm nét, sắc sảo, có hồn. Cũng đồng thời, qua đó nhắc lại, gợi mở cho người đọc, người xem những khía cạnh nổi trội về tư cách của đối tượng, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm rồi suy gẫm về những điều ẩn chứa bên trong cuộc đời của từng tác giả (bức vẽ), gây hứng thú cho người đọc, kích thích sự tìm tòi, tiếp cận tác phẩm của đối tượng.
Thơ Chân Dung của Xuân Sách vừa là Thơ, vừa là Họa. Trong Thơ có Họa, trong bức họa tràn đầy chất thơ. Đọc thơ ông, người đọc phải suy nghĩ, tìm hiểu rồi khi tìm ra... trào dâng, rung lên cảm xúc… Trong trí tưởng người đọc hiện ra chân dung của người được vẽ thật sống động trên nền những bối cảnh của bức tranh cuộc đời họ…
Tác phẩm của ông được khá nhiều người dựa vào rồi thể hiện CDNV theo cách của họ, đưa ra những mô típ mới để tạo ra một sân chơi thi phú đầy hứng khởi... Tuy nhiên, tác phẩm của Xuân Sách vẫn giữ nguyên giá trị nguyên thủy: Thâm sâu, trí tuệ, nghệ thuật!

Sưu tầm.
CHÂN DUNG 100 NHÀ VĂN QUA CÁI NHÌN CỦA NHÀ THƠ XUÂN SÁCH
1. Hồ Phương
Trên biển lớn mênh mông sóng nước
Ngó trông về xóm mới khuất xa
Cỏ non nay chắc đã già
Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem.

2. Nguyễn Đình Thi
Xung kích tràn lên nước vỡ bờ
Đã vào lửa đỏ hãy còn mơ
Bay chi mặt trận trên cao ấy
Quên chú nai đen vẫn đứng chờ.

3. Tô Hoài
Dế mèn lưu lạc mười năm
Để O Chuột phải ôm cầm thuyền ai
Miền tây sen đã tàn phai
Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang.

4. Nguyên Hồng
Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ
Sóng gầm sông Lấp mấy ai hay
Cơn bão đến động rừng Yên thế
Con hổ già uống rượu giả vờ say

5. Nguyễn Công Hoan
Bác Kép Tư Bền rõ đến vui
Bởi còn tranh tối bác nhầm thôi
Bới tung đống rác nên trời phạt
Trời phạt chửa xong bác đã cười.

6. Nguyễn Tuân
Vang bóng một thời đâu dễ quên
Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên
Chén rượu tình rừng cay đắng lắm
Tờ hoa lại trót lỡ ưu phiền.

7. Huy Cận
Các vị La hán chùa Tây phương
Các vị gày quá tôi thì béo
Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
Bây giờ tôi hát đất nở hoa
Tôi hát chiến tranh như trẩy hội
Không nên xấu hổ khi nói dối
Việc gì mặt ủ với mày chau
Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu!

8. Xuân Diệu
Hai đợt sóng dâng một khối hồng
Không làm trôi được chút phấn thông
Chao ơi ngói mới nhà không mới
Riêng còn chẳng có, có gì chung.

9. Tế Hanh
Quá tuổi hoa niên đã bạc đầu
Tình còn dang dở tận Hàng Châu
Khúc ca mới hát sao buồn thế
Hai nửa yêu thương một nửa sầu.

10. Chế Lan Viên

Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tàn
Ta nghĩ tới vàng son từ thuở ấy
Chim báo bão, lựa chiều cơn gió dậy
Lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi
sắc phù sa
Thay đổi cả cơn mơ,
ai dám bảo con tầu không mộng tưởng
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tầu, ta cũng uống

Mặt anh em trong suối cạn Hội nhà văn

11. Nguyễn Thi
Trăng sáng soi riêng một mặt người
Chia ly đôi bạn cách phương trời
Ước mơ của đất anh về đất
Im lặng mà không cứu nổi đời.

12. Kim Lân
Nên danh nên giá ở làng
Chết về ông lão bên hàng xóm kia
Làm thân con chó xá gì
Phận đành xấu xí cũng vì miếng ăn.

13. Tú Mỡ
Một nắm xương khô cũng gọi mỡ
Quanh năm múa bút để mua cười
Tưởng cụ vẫn bơi dòng nước ngược
Nào ngờ trở gió lại trôi xuôi.

14. Bùi Huy Phồn (Đồ Phồn)
Phất rồi ông mới ăn khao
Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời
Ông đồ phấn, ông đồ vôi
Bao giờ xé xác để tôi ăn mừng.

15. Hoài Thanh
Vị nghệ thuật nửa cuộc đời
Nửa đời sau lại vị người ngồi trên
Thi nhân còn một chút duyên
Lại vò cho nát lại lèn cho đau
Bình thơ tới thuở bạc đầu
Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
Giật mình mình lại thương mình
Tàn canh tỉnh rượu bóng hình cũng tan

16. Vũ Tú Nam

Vốn cùng nhân dân tiến lên
Mùa đông năm ấy bỏ quên cờ đào
Con về nấp bóng ca dao
Giật mình nghe một tiếng chào: Văn Ngan

17. Hữu Mai
Hỏng đôi mắt phải đâu là mất hết
Trong cặp còn hồ sơ điệp viên
Ông cố vấn chẳng sợ gì cái chết
Cao điểm cuối cùng quyết chí xông lên.

18. Đỗ Chu
Đám cháy ở sau lưng
Đám cháy ở trước mặt
Than ôi mày chạy đâu
Dưới vòm trời quen thuộc
Đốt bao nhiêu cỏ mật
Không bay mùi thơm tho
Càng hun càng đỏ mắt
Quay về thung lũng cò

19. Xuân Quỳnh
Mải hái hoa dọc chiến hào
Bỏ quên chồi biếc lúc nào không hay
Thói quen cũng lạ lùng thay
Trồng cây táo lại mọc cây bạch đàn

20. Phạm Tiến Duật
Trường sơn đông em đi hái măng
Trường sơn tây anh làm thơ cho lính
Đời có lúc bay lên vầng trăng
Lại rơi xuống chiếc xe không kính
Thế đấy! giữa chiến trường
Nghe tiếng bom cũng mạnh!

21. Nguyễn Thành Long
Thao thức năm canh nghĩ chẳng ra
Trò chơi nguy hiểm đấy thôi mà
Lặng lẽ giữa khoảng trong xanh ấy
Để mối đùn lên đến lúc già.

22. Đào Vũ
Trời thí cho ông vụ lúa chiêm
Ông xây sân gạch với xây thềm
Con đường mòn ấy ông đi mãi
Lưu lạc đâu rồi mất cả tên

23. Nguyễn Bính
Hai lần lỡ bước sang ngang
Thương con bướm đậu trên giàn mồng tơi
Trăm hoa thân rã cành rời
Thôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ.

24. Nguyễn Văn Bổng
Nhọc nhằn theo bước con trâu
Hỡi người áo trắng nông sâu đã từng
Mỗi bước đi một bước dừng
Mà sao vẫn lạc giữa rừng U minh.

25. Nguyên Ngọc
Mấy lần đất nước đứng lên
Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm
Hại thay một mạch nước ngầm
Cuốn trôi đất Quảng lẫn rừng Xà nu

26. Vũ Thị Thường 
Từ trong hom giỏ chui ra
Đã toan gánh vác sơn hà chị ơi
Định đem cái lạt buộc người
Khổ thay ông lão vịt trời phải chăn

27. Quang Dũng
“Sông Mã xa rồi tây tiến ơi”
Về làm xiếc khỉ với đời thôi
Nhà đồi một nóc chênh vênh lắm
Sống tạm cho qua một kiếp người
Áo sờn thay chiếu anh về đất
Mây đầu ô trắng, Ba vì xanh
Gửi hồn theo mộng về tây tiến
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

28. Mai Ngữ 
Tưởng chuyện như đùa hoá ra thật
Biết ông sòng phẳng tự bao giờ
Cái con thò lò quay sáu mặt
Vồ hụt mấy lần ông vẫn trơ

29. Nguyễn Khải
Cha và con và… họ hàng và…
Hết bay mùa thóc lẫn mùa lạc
Cho nên chiến sĩ thiếu lương ăn
Họ sống chiến đấu càng khó khăn
Tháng Ba ở Tây nguyên đỏ lửa
Tháng tư lại đi xa hơn nữa
Đường đi ra đảo đường trong mây
Những người trở về mấy ai hay
Xung đột mỗi ngày thêm gay gắt
Muốn làm cách mạng nhưng lại dát

30. Hoàng Trung Thông
Đường chúng ta đi trong gió lửa
Còn mơ chi tới những cánh buồm
Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất
Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm

31. Chính Hữu

Tấm áo hào hoa bạc gió mưa
Anh thành đồng chí tự bao giờ
Trăng còn một mảnh treo đầu súng
Cái ghế quan trường giết chết thơ.

32. Thanh Tịnh
Bao năm ngậm ngải tìm trầm
Giã từ quê mẹ xa dòng Hương giang
Bạc đầu mới biết lạc đường
Tay không nay lại vẫn hoàn tay không
Mộng làm giọt nước ôm sông
Ôm sông chẳng được, tơ lòng gió bay.

33. Chu Văn 

Một con trâu bạc già nua
Nhờ cơn bão biển thổi lùa lên mây
Trâu ơi ta bảo trâu này
Quay về đất mặn kéo cày cho xong.

34. Ngô Tất Tố
Tài ba thằng mõ cỡ chuyên viên
Chia xôi chia thịt lại chia quyền
Việc làng việc nước là như vậy
Lộn xộn cho nên phải tắt đèn.

35. Nam Cao
Anh còn đôi mắt ngây thơ
Sống mòn sao vẫn đợi chờ tương lai
Thương cho Thị Nở ngày nay
Kiếm không đủ rượu làm say Chí Phèo.

36. Xuân Thủy 
Xoắn mãi dây tình thơ bật ra
Paris thì thích hơn ở nhà
Đông y ắt hẳn hơn tây dược
Xe tải không bằng xe Vonga
Trên đời kim cương là quý nhất
Thứ đến tình thương dân nghèo ta
Em chớ chê anh già lẩm cẩm
Còn hơn thằng trẻ lượn Honđa.

37. Lưu Trọng Lư
Em không nghe mùa thu
Mùa thu chỉ có lá
Em không nghe rừng thu
Rừng mưa to gió cả
Em thích nghe mùa xuân
Con nai vờ ngơ ngác
Nó ca bài cải lương.

38. Nguyễn Khoa Điềm
Một mặt đường khát vọng
Cuộc chiến tranh đi qua
Rồi trở lại ngôi nhà
Cất lên ngọn lửa ấm
Ngủ ngon a Kai ơi
Ngủ ngon a Kai à…

39. Nguyễn Kiên
Anh Keng cưới vợ tháng mười
Những đứa con lại ra đời tháng năm
Trong làng kháo chuyện rì rầm
Vụ mùa chưa gặt thóc đã nằm đày kho.

40. Anh Thơ
Ấy bức tranh quê đẹp một thời
Má hồng đến quá nửa pha phôi
Bên sông vải chín mùa tu hú
Khắc khoải kêu chi suốt một đời.

41. Xuân Thiều
“Đôi vai” thì gánh lập trường
Đôi tay sờ soạng con đường cuối thôn
Nghe anh kể chuyện đầu nguồn
Về nhà thấy mất cái hồn của em.

42. Nguyễn Thị Như Trang
Nhá nhem khoảng sáng trong rừng
Để cho cuộc thế xoay vần hơn thua
Xác xơ mầu tím hoa mua
Lửa chân sóng báo mây mưa suốt ngày.

43. Bùi Đức Ái (Anh Đức)

Chị Tư Hậu đẻ ra anh
Ví như hòn đất nặn thành đứa con
Biển xa gió dập sóng dồn
Đất tan thành đất chỉ còn giấc mơ.

44. Nguyễn Thế Phương
Đi bước nữa rồi đi bước nữa
Phấn son mưa nắng đã tàn phai
Cái kiếp đào chèo là vậy đó
Đêm tàn bến cũ chẳng còn ai.

45. Vũ Trọng Phụng

Đã qua đi một thời giông tố
Qua một thời cơm thầy cơm cô
Còn để lại những thằng Xuân tóc đỏ
Vẫn nghênh ngang cho đến tận bây giờ.

46. Xuân Thiêm

Thơ ông tang tính tang tình
Cây đa bến nước mái đình vườn dâu
Thân ông mấy lượt lấm đầu
Miếng mồi danh lợi mắc câu vẫn thèm.

47. Đào Hồng Cẩm
Bắt đầu từ lão nghị hụt
Cầm dao giết mạng người
Chị Nhàn phải đi bước nữa
Lấy đại đội trưởng của tôi
Cuộc đời mấy phen nổi gió
Phải đem tổ quốc thề bồi
Lần này ông ra ứng cử
Chắc hẳn là trúng nghị viên thôi.

48. Nguyễn Quang Sáng
Ông Năm Hạng trở về đất lửa
Với chiếc lược ngà vượt Trường sơn
Bỗng mùa gió chướng vừa nổi dậy
Ông biến thành thằng nộm hình rơm.

49. Hoàng Văn Bổn
Có những lớp người đi vỡ đất
Mùa mưa không trồng lúa trồng ngô
Lại gieo hạt bông hường bông cúc
Trên mảnh đất này hoa héo khô.

50. Phù Thăng
Chuyện kể cho người mẹ nghe
Biển lửa bốc cháy bốn bề tan hoang
Đứa con nuôi của trung đoàn
Phá vây xong lại chết mòn trong vây.

51. Nguyễn Thị Ngọc Tú
Đất làng vừa một tấc
Bao nhiêu người đến cày
Thóc giống còn mấy hạt
Đợi mùa sau sẽ hay

52. Vũ Cao
Sớm nay nhấp một chén trà
Bâng khuâng tự hỏi đâu là núi đôi
Những người cùng làng với tôi
Muốn sang đèo trúc muộn rồi đừng sang

53. Phan Tứ (Lê Khâm)
Bên kia biên giới anh sang
Trước giờ nổ súng về làng làm chi
Mẫn và tôi tính chi li
Gia đình má Bảy lấy gì nuôi anh.

54. Nguyễn Huy Tưởng
Anh chẳng còn sống mãi
Với thủ đô luỹ hoa
Để những người ở lại
Bốn năm sau khóc oà.

55. Thu Bồn
Chim Chơ rao cất cánh ngang trời
Tình như chớp trắng cháy liên hồi
Đám mây cánh vạc tan thành nước
Mà đất ba dan vẫn khát hoài.

56. Bùi Hiển
Sinh ra trong gió cát
Đất Nghệ an khô cằn
Bao nhiêu năm “nằm vạ”
Trước cửa Hội Nhà văn.

57. Võ Huy Tâm
Đem than từ vùng mỏ
Về bán tại thủ đô
Bị đập chiếc cán búa
Hoá ra thằng ngẩn ngơ.

58. Nông Quốc Chấn

Tưởng anh dọn về làng xưa
Ngờ đâu về tận thủ đô nhận nhà
Sướng cái bụng lắm lắm à
Đêm là đèo gió, ngày là hồ Tây.

59. Thế Lữ
Với tiếng sáo thiên thai dìu dặt
Mở ra dòng Thơ Mới cho đời
Bỏ rừng già về vườn bách thú
Con hổ buồn lặng lẽ trút tàn hơi.

60. Nguyễn Minh Châu
Cửa sông cất tiếng chào đời
Rồi đi ra những vùng trời khác nhau
Dấu chân người lính in mau
Qua miền cháy với cỏ lau bời bời
Đọc lời ai điếu một thời
Tan phiên chợ Giát hồn người về đâu?

61. Phạm Huy Thông
Nếu Trương Lương không thổi địch sông Ô
Liệu Hạng Vũ có lên ngôi hoàng đế
Nhưng buồn thay đã đánh mất Ngu Cơ
Đời chẳng còn gì, và thơ cũng thế.

62. Giang Nam
“Xưa tôi yêu quê hương vì có chim có bướm”
“Có những ngày trốn học bị đòn roi”

Nay tôi yêu quê hương về có ô che nắng
Có ghế ngồi viết những điệu thơ vui.

63. Bằng Việt
Nhen lên một bếp lửa
Mong soi gương mặt người
Bỗng cơn giông nổi đến
Mây che một khung trời
Đất sau mưa sụt lở
Mầu mỡ trôi đi đâu
Còn trơ chiếc guốc võng
Trăng mài mòn canh thâu.

64. Nguyễn Trọng Oánh
Một chút hương thơm trải bốn mùa
Mười năm lăn lội chốn rừng già
Quay về không chịu ơn mưa móc
Đất trắng mưa rồi đất lại khô.

65. Nguyễn Xuân Sanh
Xưa thơ anh viết không người hiểu
“Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”
Nay anh chưa viết người đã hiểu
Sắp sáng thì nghe có tiếng gà.

66. Thâm Tâm
“Người đi, ờ nhỉ, người đi thật”
Đi thật nhưng rồi lại trở về
Nhẹ như hạt bụi, như hơi rượu
Mà đắm hồn người trong tái tê.

67. Nguyễn Huy Thiệp
Không có vua thì làm sao có tướng
Nên về hưu vẫn phải chết tại chiến trường
Kiếm sắc chém bao nhiêu đầu giặc
Để vàng tôi trong lửa chịu đau thương.

68. Phùng Quán
Hồn đã vượt Côn đảo
Thân xác ở trong lao
Bởi nghe lời mẹ dặn
Nên suốt đời lao đao.

69. Tố Hữu
Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
Mắt trông về tám hướng phía trời xa
Chân dép lốp bay vào vũ trụ

Khi trở về ta lại là ta
Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
Trông về Việt Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường, hoa ở đây.

70. Dương Thu Hương
Tay em cầm bông bần ly
Bờ cây đỏ thắm làm chi não lòng
Chuyện tình kể trước lúc rạng đông
Hoàng hôn ảo vọng vẫn không tới bờ
Thiên đường thì quá mù mờ
Vĩ nhân tỉnh lẻ vật vờ bóng ma
Hành trình thơ ấu đã qua
Hỡi người hàng xóm còn ta với mình.

71. Hữu Thỉnh
Cùng đoàn quân anh đi tới thành phố
Bị lạc đường về Hội Nhà văn
Ờ nhỉ bao giờ quay trở lại
Với năm anh em trên một chiếc xe tăng.

72. Trần Bạch Đằng(Hưởng Triều, Hiểu Trường, Ng.Trương Thiên Lý)
Ván bài lật ngửa tênh hênh
Con đường thiên lý gập ghềnh mãi thôi
Thay tên đổi họ mấy hồi
Vẫn chưa tới được chân trời mộng mơ

73. Nguyễn Duy
Mẹ và em đang ở đâu
Giữa vùng cát trắng đêm thâu gió lùa
Ổ rơm teo tóp ngày mùa
Xác xơ thân lúa vật vờ thân tôi
Bờ tre kẽo kẹt liên hồi
Bầu trời vuông với một ngôi sao dời
Đánh thức tiềm lực suốt đời
Ai? Chẳng ai đáp lại lời của tôi.

74. Nguyễn Mạnh Tuấn
Anh đã đứng trước biển
Cù lao Chàm kia rồi
Những khoảng cách còn lại
Xa vời lắm anh ơi.

75. Trần Mạnh Hảo
Ôi thằng Trần Mạnh Hảo
Đi phỏng vấn Chí Phèo
Lão chết từ tám hoánh
Đời mày vẫn gieo neo
Còn cái lão Bá Kiến
Đục bản in thơ mày
Bao giờ mày say rượu?
Bao giờ mày ra tay?

76. Hoàng Cầm
Em ơi buồn làm chi
Em không buồn sao được
Quan họ đã vào hợp tác
Đông Hồ gà lợn nuôi chung
Bên kia sông Đuống em trông
Tìm đâu thấy lá diêu bông hỡi chàng.

77. Lê Lựu
Người về đồng cói người ơi
Phía ấy mặt trời mọc lại
Một thời xa vắng, xa rồi
Phủ Khoái xin tương oai oái
Ở đời gặp may hơn khôn
Nào ai dám ghen dám cãi
Người đã đi Mỹ hai lần
Biết rồi, khổ lắm, nói mãi

78. Vũ Quần Phương
Anh đứng thành tro… em có biết
Hôm qua lại gặp chuyến xe bò
Vẫn anh đi trong vầng trăng cũ
Áo đỏ bên cầu đợi ngẩn ngơ.

79. Hữu Loan
Ôi màu tím hoa sim
Nhuốm tím cuộc đời dài đến thế
Cho đến khi tóc bạc da mồi
Chưa làm được nhà
còn bận làm người
Ngoảnh lại ba mươi năm
Tìm mấy nghìn
chiều hoang
biền biệt

80. Lý Văn Sâm
Kòn Trô dấn bước đường chinh chiến
Nửa gánh giang hồ nửa ái ân
Ngàn sau sông Dịch còn tê lạnh
Tráng sĩ có về với bến xuân.

81. Tản Đà
Văn chương thuở ấy như bèo
Thương cụ gồng gánh trèo leo tận trời
Giấc mộng lớn đã bốc hơi
Giấc mộng con suốt một thời bơ vơ
Ước chi cụ sống tới giờ
Chợ trời nhan nhản tha hồ bán văn.

82. Lưu Quang Vũ
Cũng muốn tin ở hoa hồng
Tin vào điều không thể mất
Cả tôi và cả chúng ta
Đứng trong đầm lầy mà hát
Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm đã chết
Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm ai giết?

83. Hà Minh Tuân
Bốn mươi tuổi mới vào đời
Ăn đòn hội chợ tơi bời xác xơ
Giữa hai trận tuyến ngu ngơ
Trong lòng Hà nội bây giờ ở đâu?

84. Minh Huệ
Vỡ lòng câu thơ viết
Mời bác ngủ bác ơi
Đêm nay bác không ngủ
Nhà thơ ngủ lâu rồi

85. Văn Cao
Thiên thai – từ giã về dương thế
Nhắc chi ngày ấy buồn lòng ta
Sân đình ngất ngưởng ngôi tiên chỉ
Uống rượu say rồi hát quốc ca

86. Ma Văn Kháng
Khi xuôi anh mang theo
Đồng bạc trắng hoa xòe
Với một mối tình sơn cước
Mùa lá rụng trong vườn
Năm này qua năm khác
Đám cưới vẫn không thành
Vì giấy gía thú chửa làm xong

87. Vũ Bão
Sắp cưới bỗng có thằng phá đám
Nên ông chửi bố chúng mày lên
Đàu chày đít thớt đâu còn ngán
Không viết văn thì ông viết phim.

88. Hồ Dzếnh
Biết mấy mươi chiều khói thuốc bay
Quê nhà vẫn lẩn khuất trong mây
Lui về ký ức chân trời cũ
Uống chén rượu buồn không dám say.

89. Hoàng Phủ Ngọc Tường
Trăm năm ông phủ… Ngọc Tường ơi
Cái nợ lên xanh rũ sạch rồi
Cửa Việt tung hoành con sóng vỗ
Sông Hương lặng lẽ chiếc thuyền trôi
Sử thi thành cổ buồn nao dạ
Chuyện mới Đông hà tái nhợt môi
Từ biệt chốn xưa nhiều ánh lửa
Trăm năm ông phủ… Ngọc Tường ơi!

90. Phạm Thị Hoài
Dẫu chín bỏ làm mười
hay mười hai cũng mặc
Chẳng ai dung thiên sứ đất này
Dụ đồng đội vào trong mê lộ
Rồi bỏ đi du hí đến năm ngày.

91. Thanh Thảo
Giặc dã yên rồi
Về xoay khối vuông Ru bích
Đoán vận rủi may
Thưa quý vị, xin mời
Xanh tím trắng đỏ vàng đều rõ hết
Ta cùng vào cuộc chơi.
Không gian bốn năm chiều,
thời gian xin tuỳ thích
Đảo lộn tùng phèo thật gỉa trắng đen
“Tôi như cục xà bông thứ thiệt”
Cứ đổ rượu vào
hình quý vị sẽ hiện lên.

92. Trần Dần
Người người lớp lớp
xông ra trận
Cờ đỏ
mưa sa

suốt dặm dài
Mở đợt phá khẩu
tiến lên
nhất định thắng
Lô cốt mấy tầng
đè nát vai
Dẫu sông núi cỏ cây làm chứng
Hồn vẫn treo trên
Vọng hải đài.

93. Khương Hữu Dựng
Ba lô trên vai từ đêm mười chín
“Một tiếng chim kêu sáng cả rừng”
Thì cứ khắc đi rồi khắc đến
Sao còn ngồi đấy cụ già Khương?

94. Bùi Minh Quốc
Tuổi hai mươi xung phong lên Tây bắc
Nguyện hi sinh chiến đấu dưới cờ
Lại xung phong vào Nam đánh giặc
Với bà mẹ đào hầm đầu bạc phơ phơ
Hoà bình rồi tiến lên đổi mới
Bất ngờ ngã ngựa chốn non cao
Dẫu thân thể mang đầy thương tích
Thì cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yêu vẫn đẹp sao


95. Ý Nhi
Trái tim với nỗi nhớ ai
Như cây trong phố đứng hoài chờ trăng
Như người đàn bà ngồi đan
Sợi dọc thì rối, sợi ngang thì chùng.

96. Yến Lan
Ra đi từ bến My Lăng
Bao năm dấu kín ánh trăng trong lòng
Tuổi già về lại bến sông
Trăng xưa đã lớn, phải chong đèn dầu

97. Phan Thị Thanh Nhàn
Dấu một chùm thơ trong chiếc khăn tay
Em hăm hở đi tìm người trao tặng
Những kẻ phong lưu, những tên du đãng
Mấy ai biết hương thầm của cô gái xóm đê.

98. Trần Đăng Khoa
Chú dế góc sân hồn nhiên ca hát
Hát thành thơ như nước triều lên
Khi khôn lớn lại hồn nhiên đi giữa
“Biển một bên và em một bên”.

99. Hoàng Lại Giang
Người đàn bà một thời tôi ao ước
Trên vành đai Mỹ những năm xưa
Tình yêu đã lụi tàn cùng ký ức
Nhưng còn đây tội lỗi đến bao giờ?

100. Xuân Sách (Tự hoạ)
Cô giáo làng tôi đã chết rồi
Một đêm ra trận đất bom vùi
Xót xa đình Bảng người du kích
Đau đớn Bạch đằng lũ trẻ côi
Đường tới chiến công gân cốt mỏi
Lối vào lửa sởn tóc da mồi
Mặt trời ảm đạm quê hương cũ
Ở một cung đường rách tả tơi.

Nhà xuất bản Văn học

Thứ Sáu, 11 tháng 5, 2012

Thử “đọc vị” Nguyễn Trọng Tạo

Thử “đọc vị” Nguyễn Trọng Tạo
(Trịnh Quốc Dũng)



Xem tại đây:
Làng Quan họ quê tôi (NS Nguyễn Trọng Tạo)
Khúc hát sông quê (NS NTT)
Đôi mắt đò ngang (NS Nguyễn Trọng Tạo)
Tình ca hạt giống vàng (NS NTT)


_MSC_CLICK_TO_OPEN_IMAGETôi gặp gỡ nhà thơ – nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo lần đầu tiên tại một quán rượu trên đường Bưởi. Cái cảm giác trước khi được gặp gỡ một người nổi tiếng, một nhà thơ lớn với rất nhiều bài thơ mà tôi thuộc nằm lòng từ lâu là sự hồi hộp xen lẫn chút ngại ngùng. Nhưng anh đã xóa tan đi cái cảm giác ban đầu đó của tôi bằng cái bắt tay đầy thiện cảm và chân thành.
Thế là trong suốt cuộc rượu hôm đó, tôi chỉ ngồi rót rượu và nghe anh cùng với nhà thơ Lê Huy Mậu (Vũng Tàu) và nhà văn Nguyễn Đức Thiện (Tây Ninh) đàm đạo về chuyện văn chương, nhân tình thế thái. Tôi chú ý đến cái cách anh châm thuốc lá và nhả khói, điệu đàng và nghệ sỹ lắm. Những vạt khói lơ lửng như những nàng Tiên đùa giỡn người hút cũng như người xung quanh một lúc lâu rồi mới chịu tan biến vào không gian. Người hút thuốc được như vậy cũng là một tay chơi sành sỏi, tôi thầm nghĩ như vậy. Dù không biết hút thuốc và thực sự cũng không thích nó, tôi vẫn “phê” cách hút và châm thuốc của Nguyễn Trọng Tạo. Có nhiều nghiên cứu khoa học chỉ ra rằng, thuốc lá không chỉ gây hại cho người hút mà còn ảnh hưởng tới sức khỏe của những người bên cạnh (thực tế đã có những quốc gia cấm công dân nước mình hút thuốc lá ở nơi công cộng) nhưng tôi vẫn thấy những lời cảnh báo kia là vô nghĩa khi người hút thuốc đối diện tôi là nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo. 



Tôi đã từng nghĩ rằng một ngày có 24 tiếng, đời người giỏi lắm thì sống được khoảng 70 đến 80 năm (cá biệt thì trên 100 năm), rất ngắn ngủi. Vì thế, con người ta phải cố gắng hết sức để làm việc mới mong đạt được một thành tựu gì đó trước khi giã từ cuộc đời này, hướng tới một lý tưởng “Phải có danh gì với núi sông” của cụ Nguyễn Công Trứ ngày xưa đã từng tâm niệm. Do vậy khi được biết Nguyễn Trọng Tạo ngất ngưởng uống rượu thâm đêm thâm ngày, có những cuộc kéo dài tới 25 tiếng (đến nay chưa ai phá được kỷ lục), mà lại viết được những “Tản mạn thời tôi sống”, “Tin thì tin không tin thì thôi”, “Đồng dao cho người lớn”, “Gửi người không quen”, “Thế giới không còn trăng”, “Làng quan họ quê tôi”, “Khúc hát sông quê”, “Đôi mắt đò ngang”, “Con dế buồn”, “Xa quê nghe tiếng mẹ”,… rồi vẽ bìa, vẽ tranh, làm báo, làm sách, biên tập thơ,…mê đắm bao nhiêu con tim Việt Nam ở trong và ngoài nước thì thực tình tôi không thể tin được. Uống rượu suốt ngày thế thì lấy đâu ra thời gian để làm những việc đó? Tại sao lại như thế nhỉ? Những câu hỏi này đã theo tôi suốt một thời gian, cho đến khi được đọc những bài bút ký của nhà văn hóa Hoàng Phủ Ngọc Tường, một Người Ham Chơi đương thời, hiện đang sống ở Huế. Hãy nghe Hoàng Phủ lý giải về cái sự Ham Chơi này: “Trong mỗi người Việt chúng ta có một Người Làm (homo fabien), một Người Nghĩ (homo sapien) và có thêm một Người Ham Chơi (homo ludus). Người Ham Chơi này Tây rất thèm nhưng không đạt nổi. Ham Chơi ở đây không phải là lười biếng. Ham Chơi là cách sống đạt đạo của con người đã nhìn thấy từ lâu bản chất phù hư của thế giới, hiểu rõ rằng những giá trị vật chất có khả năng đến đâu trong cuộc mưu cầu hạnh phúc cho con người.”.
Thì ra là vậy, câu hỏi đeo đẳng tôi bấy lâu đã có lời giải đáp. Có lẽ trong thời gian ở Huế, Nguyễn Trọng Tạo đã gặp gỡ với Người Ham Chơi Hoàng Phủ Ngọc Tường, rồi anh tạo một sân Chơi, sân Chơi mà ở đó anh tự trải chiếu hoa cho riêng mình, để trở thành một Người Ham Chơi đích thực, và hướng dẫn người khác cũng Ham Chơi giống mình. Tuy vậy, để đạt được cái danh hiệu Người Ham Chơi như anh thì không hề dễ chút nào. Có thể có người sẽ tin hay không tin vào những điều tôi vừa nói, thế nên, trong khuôn khổ bài viết này, tôi sẽ đi làm một cái việc, có lẽ quá sức đối với tôi, một người không phải là dân văn chương. Đó là thử “đọc vị” Nguyễn Trọng Tạo, để xem anh Ham Chơi đến mức nào.
Đầu tiên là sự Chơi Thơ. Nếu như thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường là thơ của nỗi buồn (có nhà phê bình gọi ông là nhà thơ của nỗi buồn) thì thơ của Nguyễn Trọng Tạo là thơ tài hoa, đúng như nhận xét của nhà thơ Lê Huy Mậu. Tài hoa ở đây là những bài thơ của anh có ý tứ lạ, độc đáo, nhiều khi đi thẳng vào sự vật, hiện tượng cần diễn tả mà vẫn gợi cho người đọc nhiều điều liên tưởng về cuộc sống, về con người bình thường nhưng mang đầy chất triết lý. Anh tiếp cận những vấn đề đó có cảm giác như rất dễ dàng, như là Chơi vậy. Có thể có người đọc thơ anh xong thì nhăn mặt và nói lẩm bẩm một mình: “Cái đó mà hắn cũng viết ra được“. Có gì là khó hiểu đâu, vì những điều anh nói, anh trăn trở trong thơ chính là Sự thật, cái mà nhân loại luôn hướng đến nhưng có lẽ chưa bao giờ được toại nguyện tuyệt đối cả. Vì thế, anh tỏ ra rất ác cảm, khó chịu với “khối người như chiếc bóng…”.
Thật ra, rất khó có thể phân loại thơ của Nguyễn Trọng Tạo thuộc dòng thơ nào trong nền thơ ca Việt Nam, vì ở giai đoạn nào anh cũng có những thành tựu đáng kể. Chẳng hạn như, ở thời kỳ thơ chống Mỹ, anh nổi tiếng với trường ca “Con đường của những vì sao” ca ngợi chiến công của mười cô gái thanh niên xung phong ở ngã ba Đồng Lộc. Đến trước những năm trước Đổi mới, anh gây chấn động thi đàn với bài thơ “Tản mạn thời tôi sống” đăng trên báo Văn nghệ. Bài thơ này đã nêu lên được những thực trạng của thời kỳ bao cấp, bao nhiêu bức xúc, bao nhiêu trăn trở, kìm nén với những câu thơ rất hay, khái quát được cả một thời kỳ:
Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi
Câu trả lời thật không dễ dàng chi!
Thơ Nguyễn Trọng Tạo được người đọc nhớ đến nhiều, có lẽ bởi vì thơ anh rất giàu hình ảnh, giàu nhạc tính và cũng mới nữa. Tôi trộm nghĩ, người viết được như thế phải có một tâm hồn rất trẻ, và quan trọng hơn là phải theo kịp được thời đại vốn đầy những biến động, luôn cuồn cuộn như những dòng sông đổ ra biển lớn. Gần đây (2008), anh mới xuất bản tập thơ “Em đàn bà“, gồm 32 bài thơ tình. Hãy tưởng tượng nếu như chưa biết mặt tác giả hoặc giả dụ không có tấm ảnh bìa, khi đọc tập thơ này, tôi chắc quí vị sẽ hình dung ra một chàng trai mới đôi mươi, tràn trề nhựa sống, viết thơ tình cho người mình yêu. Trong tập thơ này, có nhiều bài hay, thơ sex viết bạo liệt, mạnh mẽ nhưng cũng rất thật, rất chân thành của những người đang yêu như: “Đà Lạt và hoa”, “Tập đếm”, “Ru trắng”, “Anh ném em lên trời”, “Em đàn bà”, “Tìm hoa”, “Ta đã yêu nhau từ kiếp trước”,…
Đã nhiều lần, tôi thử nhắm mắt và cố hình dung về một Nguyễn Trọng Tạo trong hành trình thơ ca của anh. Từ một cậu bé chăn trâu cắt cỏ trên bờ sông Bùng (Diễn Châu), bỗng dưng “đọc trộm” thơ của Hàn Mặc Tử rồi mắc “bệnh thi sĩ” và trở thành một chàng lãng tử trong thi ca. Chàng lãng tử này là một người hành hương trong hành trình đi tìm Đạo. Trên chặng đường đi đầy chông gai và vực thẳm đó, người hành hương gặp được những người bạn tri kỷ, những người bạn mà “Túi đầy thơ tặng túi đầy trăng”, “Trái tim bạn giữ cho ta đây/Niềm vui bạn giữ cho ta đây…”. Chàng còn gặp những bông Hoa đẹp trong những vườn thơm cỏ lạ, đúng như tâm sự của chàng “Vẽ tôi thấy Đẹp là mê”. Vì yêu Hoa, yêu cái Đẹp da diết mà chàng rất sợ khi nhìn thấy nó tan biến khỏi cuộc sống này, giống như “Mùa xuân thương ai tươi ròng muôn sắc/Cả một trời hoa sương nhòa nước mắt..” hay “Hoa đào vương kiếp đào hoa/Thắm tươi một thuở phôi pha một ngày”,…
Cũng trên chặng đường này, chàng mới nhận thấy cuộc sống thật trống trải, cô đơn và thời gian đối với một đời người là ngắn ngủi. Đó là nỗi Cô đơn nguyên thủy, thường trực của con người trong hành trình tiến hóa của mình. Vì thế, Nỗi buồn như là một người bạn sẻ chia mà chàng không hề chối bỏ, có khi chàng còn van nài nó “Buồn ơi Buồn có thương tôi/Đừng làm tôi phải mồ côi Nỗi buồn…”. Và vì thời gian với chàng là ngắn ngủi, là “Có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi” nên rất nhiều lần, chàng tỏ ý tiếc nuối thời gian, mong cho thời gian trôi chậm lại để chàng nhanh chóng tìm được Đạo, tìm được cái Đẹp vĩnh hằng. Do vậy mà chàng đã nâng niu, xả thân và bảo vệ hết mình cho cái Đẹp trong hành trình của mình.
Đối với chàng, dù có đi cùng trời cuối bể, dù có Ham Chơi rong ruổi cả đời thì hình ảnh quê hương vẫn ngự trị trong tâm trí. Nương thân ở chốn thị thành nhưng chàng vẫn thèm được nghe một khúc dân ca xứ Nghệ, thèm được ăn một miếng cơm nắm quê nhà, thèm được trở về tắm ở con sông Bùng, thèm được ngủ trong vòng tay người mẹ yêu kính,.. Hình như đó là cái day dứt, cái trăn trở muôn thuở của loài thi sĩ (chữ của Hàn Mặc Tử), những người được Thượng đế trao cho sứ mệnh đi tìm Đạo cho loài người?
Về sự Chơi Nhạc, Nguyễn Trọng Tạo sáng tác không nhiều (so với thơ), tuy vậy anh cũng kịp để lại dấu ấn của mình với nền âm nhạc nước nhà. Theo tôi, ba tác phẩm nổi tiếng nhất của anh là “Làng quan họ quê tôi”, “Khúc hát sông quê” và “Đôi mắt đò ngang”. “Làng quan họ quê tôi” thì đã nổi tiếng từ lâu, nay trở thành “tỉnh ca” của tỉnh Bắc Ninh. “Khúc hát sông quê“, sáng tác năm 2002, thì càng ngày càng nổi tiếng, đến nỗi uống rượu mà không ngân nga vài câu hát xem chừng mất vui, cuộc rượu đó xem chừng hơi nhạt. Tôi đã nhiều lần thử lý giải xem tại sao bài hát này lại có sức hút ghê gớm đến vậy, từ ông Bộ trưởng đến những người dân bình thường nhất đều yêu thích nó, trong khi có rất nhiều bài hát khác viết về dòng sông lại không có được diễm phúc đó.
Chúng ta đều biết văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, vì thế mà dòng sông có một tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống của con người. Có thể nói không ngoa rằng, tất cả những phong tục, tập quán, tín ngưỡng cho đến công việc sản xuất, thói quen sinh hoạt hàng ngày của người dân Việt đều ít nhiều gắn bó với dòng sông. Do đó, dòng sông quê là hồn vía của người Việt. Nó vừa gần gũi, vừa linh thiêng đối với mỗi chúng ta. Chính vì vậy, đây là một trong những đề tài xuyên suốt của văn hóa nghệ thuật Việt Nam, trong đó có âm nhạc. Đã có bao nhiêu nhạc sỹ viết về nó với rất nhiều tâm huyết, nhiều kỳ vọng nhưng đã mấy ai “chạm” được vào cái sâu thẳm của dòng sông quê, tức là cái hồn của nó. Nguyễn Trọng Tạo đã làm được điều này, khi anh đã “bắt” được cái hồn đó trong trường ca “Thời gian khắc khoải” của nhà thơ Lê Huy Mậu. Đúng như tên gọi, cả trường ca này là một sự day dứt, nhớ thương của người lữ thứ khi trở về, đứng trước dòng sông quê mình. Không day dứt, không nhớ thương sao được khi “Quá nửa đời phiêu dạt con lại về úp mặt vào sông quê“, rồi cùng với dòng sông hồi tưởng về những ngày thơ bé “Sông còn nhớ chăng nơi ta ngồi ngóng mẹ/Vời vợi tuổi thơ một xu bánh đa vừng”, sau đó nhớ lại những ngày tháng thanh bình, yên ả và để khắc khoải trước cái vô hạn của dòng sông “Một dòng xanh trong chảy mãi tới vô cùng…” với cái hữu hạn của số kiếp con người. Tôi được biết, khi phổ nhạc bài hát này, Nguyễn Trọng Tạo chỉ mất khoảng 30 phút. Nếu không phải anh đã Làm với tư tưởng Chơi, sao lại sáng tạo được nhạc phẩm này?
Nguyễn Trọng Tạo còn một bài hát rất hay nữa, tuy không nổi tiếng bằng hai bài kia, đó là “Đôi mắt đò ngang“. Bài hát lấy bối cảnh một chuyến đò ngang qua dòng sông Lam. Ta cũng thấy dòng sông quê, nhưng sông quê ở đây chỉ làm nền cho hai nhân vật then chốt: người khách sang sông và cô gái xứ Nghệ. Người khách vì “kết” đôi mắt biếc với nụ cười lúng liếng, lẳng lơ của người đẹp nên đã cất công đi khắp chợ đông, khắp dòng sông Lam chỉ để tìm nàng. Đem lòng yêu người đẹp, người khách đa tình kia đã phải lòng cả đất trời, cả con người vùng sông nước ấy. Đến khi đã say, đã ngấm cái men tình kia rồi, thì chàng ta đâu có xá gì, kể cả đến lúc phải “liều”: “Chợ đông ai sợ đò đầy/Chìm trong đôi mắt ấy/Đò đầy, đò đầy anh cứ sang”. Cái hay, cái chất trữ tình, tự nhiên pha chút ỡm ờ của bài hát này là ở chỗ ấy. Nghe bài hát này nhiều lần, tôi thường hay liên tưởng đến bài thơ viết về “đặc sản Huế” (chữ của Hoàng Phủ Ngọc Tường) của Người Ham Chơi Nguyễn Công Trứ thuở nào.
Thứ ba là sự Chơi Họa. Nguyễn Trọng Tạo vẽ rất nhiều tranh và bìa sách, trong đó có những tác phẩm còn đạt cả giải thưởng nữa. Điều đó không ai phủ nhận. Với anh, Họa cũng là một sự Chơi. Anh làm công việc Vẽ với tâm thế Chơi. Tôi vốn không rành về hội họa, vậy mà khi xem lại các bức ảnh chụp với các văn nghệ sỹ của anh, vẫn thấy ấn tượng nhất với bức ảnh khi anh vẽ chân dung nhà thơ Phan Hồng Khánh trong một cuộc rượu. Một người với hàm râu quai nón đang cười sảng khoái còn người kia thì đang “đè ra” để vẽ những nét chân dung cuối cùng. Thấy chưa, vẽ với kiểu cách như vậy thì mới có tác phẩm hay, mới là thể hiện hết phong cách Chơi, nhưng thử hỏi có mấy ai bắt chước được thế?
Thứ tư là sự Chơi Rượu. Về sự Chơi này, ít ai bì kịp Nguyễn Trọng Tạo. Anh có cách uống thầm thì, chậm rãi, vừa uống vừa nói, vừa cười theo kiểu “Rượu ngon nhắm với nói cười”. Cũng nhờ có rượu mà anh để lại câu thơ tuyệt hay về Huế trong một lần ngất ngưởng với bè bạn: “Sông Hương hóa rượu ta đến uống/Ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say”. Uống rượu với anh là một thú vui, một sự Chơi vì anh uống cốt để giao lưu, gặp gỡ bạn bè khắp nơi, để đàm đạo văn chương, thế sự, chia sẻ những buồn vui trong cuộc sống với họ dù rằng cũng có lúc anh phải than “Ngày ba cuộc rượu còn gì là thân”. Nhưng biết làm sao được, vì nếu không có anh thì những cuộc rượu kia chắc kém phần hào hứng lắm. Tôi cũng đoán biết rằng, rượu có một vai trò đặc biệt trong quá trình sáng tạo, đi tìm cảm hứng của anh, vì nếu không có nó thì bạn bè anh sẽ thiếu đi một Thi Tửu và chúng ta sẽ không thấy được một Nguyễn-Trọng-Tạo như ngày hôm nay.
Nguyễn Trọng Tạo có lần nói với tôi: “Thơ anh nhất định những người trí thức sẽ thích”. Đó không phải là một lời nói huyênh hoang, khoác lác của một kẻ hợm mình, mà là sự tự tin đáng trọng của một người nghệ sỹ chân chính, người nghệ sỹ luôn thắp sáng tâm hồn mình và đồng loại bằng một trái tim cao cả – trái tim Đan Kô.
Thi sĩ Nguyễn Bính khi viết về văn nghệ, có viết đại ý như sau: “Làm văn nghệ khó lắm vì có nhiều ý, nhiều chữ quá tuyệt mà người khác đã viết trước mình. Mình chỉ nhại lại thôi”. Khi viết những dòng cảm nhận này, một kẻ hậu sinh với vốn học thức ít ỏi, nông cạn như tôi cũng chỉ “nhại lại” những từ ngữ của những bậc tiền bối để bày tỏ sự kính trọng của mình với một người nghệ sỹ tài hoa – Nguyễn Trọng Tạo. Cầu chúc cho anh có một sức khỏe dồi dào để tiếp tục cuộc hành trình với thơ ca Việt, và cũng để uống rượu với bè bạn, những người tri kỷ của anh. Tôi vẫn tin trong sâu thẳm tâm hồn mình, Nguyễn Trọng Tạo, người mà cả đời chỉ biết “Chia cho em một đời Thơ” ấy vẫn luôn đau đáu một nỗi niềm, một khát vọng đối với thơ Việt. Đó là một nền Thơ đậm đà bản sắc dân tộc, nhưng cũng hướng tới cái mới, cái tiến bộ, phù hợp với xu hướng Thơ của thế giới, vì người nghệ sỹ đó hiểu rằng: Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa…

Hà Nội, 07/12/2008

Trần Kim Lan xin giới thiệu một số bài thơ của Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo:

1-Đồng dao cho người lớn

có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
có con người sống mà như qua đời
có câu trả lời biến thành câu hỏi
có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới
có cha có mẹ có trẻ mồ côi
có ông trăng tròn nào phải mâm xôi
có cả đất trời mà không nhà ở
có vui nho nhỏ có buồn mênh mông
mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió
có thương có nhớ có khóc có cười
có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi.

1992/Nguyễn Trọng Tạo





cho thơ tôi được tìm về
tuổi hai mươi, sáng mùa hè đạn bom
ngồi trêm mâm pháo quay tròn
bị thương, tôi ngỡ chẳng còn về đây...

có ai chợt đến, ghé vai
cõng tôi, bước núi bước mây chập chùng
tiếng bom lay đất, lạ lùng
người cõng tôi, bỗnh hóa vùng chở che

là khi chợt tỉnh cơn mê
nhận ra mái tóc bộn bề ngực tôi
là khi tim đập bồi hồi
nhận ra gương mặt của người... không quen

cho thơ tôi được gọi Em
và tôi xin được đi tìm người yêu
qua bao buổi sớm buổi chiều
qua bao trận đánh rất nhiều nhớ thương
hẳn là tôi đã tơ vương
người không quen... biết hỏi đường về đâu?

cho tôi xây những nhịp cầu
để em chẳng phải sông sâu lụy đò
tôi xây phố rộng, nhà to
để em đến ở, chẳng chờ đợi đâu
tôi về đồng cạn đồng sâu
may ra tát nước chung gầu cùng em...

và bao công việc không tên
tôi say như thể có em đến gần

như là tôi đã một lần
nói yêu em
dọc mùa xuân
hai người...

cho thơ tôi được nói lời
tình - yêu - tôi, gửi tới người - tôi - yêu
bởi tôi tin những sớm chiều:
người không quen... sống rất nhiều cho tôi

(Nguyễn Trọng Tạo)

Ba bài thơ in trong tập thơ chung „Anh yêu em“ gồm nhiều tác giả, do nhà Xuất bản Lao động và Trung tâm văn hóa Đông Tây tuyển chọn:

1-Ru trắng

Choàng lên thân thể em mây trắng dệt nghìn năm lụa trời non nõn trắng
Em bồng bềnh thức ngủ phía anh ru
Anh ru biển mơn man bọt sóng xỏa mòn đêm ôm bờ cát
Anh ru cây rải lá chỗ em nằm
Anh ru gió lang thang mềm hơi thở
Yêu vỗ về có theo suốt trăm năm…
Ru cô đơn chìm vào thịt da đêm trắng buốt
Ru đau thương hoang hoải dấu lưng trần
Ru bàn tay biết yêu
Ru bàn chân biết nói
Ru bờ mi rưng lệ bóng tuổi tròn
Ngày tháng mỏi buồn
Đường xa mỏi nhớ
Những trắng đêm mỏi thăng trầm bồi lở
Mỏi mặt người mặt giấy
Mỏi hoa nở hoa tàn
Mỏi cay đắng hân hoan…
Ru căn phòng ảo mờ khung tường trắng
Ru nghĩa trang trắng phớ vết thư xưa
Trước mặt sau lưng chập chờn ảo mộng
Đêm tan vào hoang vắng tiếng ru mưa…

3-6.5.2008/Nguyễn Trọng Tạo

2-Yêu hết mình
(Tặng Em)

Yêu hết mình tâm hồn thành tơ lụa
Ôm thân thể em như kén bọc tằm (*)
Yêu hết mình tâm hồn thành rượu mạnh
Thăng hoa anh
Yêu hết mình tâm hồn thành dây diều vô định
Neo tiếng sáo du dương ngút ngát không gian xanh…
Anh đã thử bay lên trời cao ấy
Mượn phép mầu thu lại tâm hồn em
Anh đã thử rơi về giường chiếu hẹp
Nhốt đam mê trong chảo nóng quay giòn
Và anh thấy tâm hồn em ánh sáng
Mắt đen tròn say đắm mắt em ngon…
Yêu hết mình người cho nhau sự sống
Mọi xích xiềng thành sợi nắng vàng mơ
Nhắm mắt lại thấy trời cao biển rộng
Thấy sống lưng ngân tiếng sáo xa mờ…

4.4.2009/Nguyễn Trọng Tạo
________
(*) Nietzche nói: “Trong một tình yêu đích thực, chính tâm hồn bao bọc lấy thân thể”.

3-Em

Em đã vắt kiệt mình như vắt kiệt mùa đông trong chậu áo quần của ba, mẹ, chồng, con, em vừa giặt giũ
Em đã cười tươi ngày mới chớm yêu và đã khóc âm thầm sau ngày cưới
Em đã chia cho anh nỗi buồn công sở và niềm vui ngày biết mang thai
Em đã hát một bài ca xưa cũ
Giữa bạn bè hồn nhiên trẻ thơ
Anh con thuyền ưa bão tố phong ba
Dòng mơ ước chân trời tít tắp
Có khi vô tâm không nghe tiếng khóc
Tiếng gió trời nức nở sau lưng…
Không còn chiến tranh anh không còn làm lính
Em thời bình Chinh Phụ vẫn chưa thôi
Có gì níu gọi ta trong bão tố cuộc đời
Có gì đẩy xô ta trong bình yên mộng ảo
Những đứa con lớn dần lên lúc vắng cha khi vắng mẹ
Những đứa con ưu buồn trước tuổi thần tiên
Em vẫn một mình đi chợ nấu cơm đến bệnh viện chăm mẹ già thăm thầy cô đưa con đi vãng cảnh
Những bài thơ của anh chất thêm lên vai em gánh nặng
Những chân trời càng đến lại càng xa
Nhắm mắt lại anh thấy em bên cạnh
Thấy con đi học về ríu rít gọi: Ba ơi…

27.9.2005/Nguyễn Trọng Tạo 

Thứ Năm, 8 tháng 9, 2011

Bà Đoàn Thị Điểm Và Chinh Phụ Ngâm Khúc

Sơ lược tiểu sử

 Bà Đoàn Thị Điểm, hiệu là Hồng Hà Nữ sĩ, biệt hiệu là Ban Tang, quê quán ở làng Hiến Phạm (còn gọi là Giai Phạm, tên nôm là làng Giữa), huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay là huyện Châu Giang tỉnh Hải Hưng. Bà chính họ là Đoàn, nhưng vì Bà lấy chồng họ Nguyễn (Ông Nguyễn Kiều), nên có sách chép Bà là Nguyễn Thị Điểm. Đây là một sai lầm đáng tiếc. Bà sanh năm Ất Dậu (1705), thời nhà Lê Trung Hưng, đời vua Lê Hy Tông, Chúa Trịnh là Định Vương Trịnh Căn và Chúa Nguyễn ở phương Nam là Nguyễn Phúc Chu.



Tâm Trạng của Bà Đoàn Thị Điểm khi diễn Nôm Chinh Phụ Ngâm:

Đoàn Thị Điểm khi còn là thiếu nữ, lúc ở nhà của dưỡng phụ Lê Anh Tuấn tại phường Bích Câu, kinh thành Thăng Long, có dịp gặp Đặng Trần Côn. Côn nhỏ hơn Cô Điểm chừng hai tuổi, con nhà quí tộc, quê ở Kẻ Mục Hạ Đình. Đó là một trang thiếu niên anh tuấn tài hoa, năm 15 tuổi đã đậu Hương Cống. Côn rất quí mến Cô Điểm về nhan sắc cũng như về tài văn chương, nên có gởi đến Cô Điểm một bài thơ tỏ ý cầu hôn.

Cô Điểm không trả lời nhưng có nói đùa với các chị em bạn:
- Cái Ông Cống Đặng, miệng còn hôi sữa, làm thơ chưa xong mà lại đi nói chuyện vợ chồng.
Đặng Trần Côn nghe thuật lại thì tức lắm, nên cố gắng miệt mài đèn sách, cố đậu cho được Tiến Sĩ trong kỳ thi Hội.
Đầu niên hiệu Cảnh Hưng nhà Lê Trung Hưng, gặp buổi chiến tranh ly loạn, trai tráng bị bắt đi lính đáng giặc phương xa, gây cảnh biệt ly đau đớn cho nhiều gia đình, Ông Đặng Trần Côn cảm xúc, đem hết sức học bình sanh viết nên tác phẩm Chinh Phụ Ngâm bằng Hán văn theo thể thơ xưa Cổ Nhạc phủ.
Khi viết xong, Đặng Trần Côn đưa tác phẩm nầy cho Ông Ngô Thời Sĩ xem. Ông Sĩ xem xong lấy làm thán phục nói rằng: "Văn chương tới mức nầy thì Lão Ngô tôi chỉ còn biết bái phục mà thôi."
Ông Đặng Trần Côn sau đó gởi tác phẩm nầy đến cho Bà Đoàn Thị Điểm xem, ngụ ý cho Bà Điểm biết rằng, trước đây Bà xem thường ông là lầm to. Lúc nầy Bà Điểm đã lấy chồng là Ông Nguyễn Kiều, và Ông Kiều đang đi sứ sang Tàu, bị kẹt ở lại bên đó vì giặc giã cắt đứt đường giao thông, nên chưa trở về Việt Nam được. Bà Điểm xem xong tác phẩm Hán văn của Ông Đặng Trần Côn thì rất phục tài văn chương của họ Đặng, lại thấy tâm sự của nàng Chinh phụ trong tác phẩm giống y hệt tâm sự của Bà lúc đó: Chồng đi sứ sang Tàu giống như đi lính thú chinh chiến ngoài biên thùy, Bà ở nhà lòng nhớ nhung lo lắng cho chồng không nguôi, lại còn lo phụng dưỡng mẹ già, nuôi nấng và dạy dỗ đàn con thơ của chồng xem như con ruột.
Tâm hồn của người Nữ sĩ rung động, và cũng muốn đáp lại tấm tình cảm của Đặng Trần Côn khi trước, Bà đem hết sự xúc cảm của tâm hồn, diễn Nôm tác phẩm Chinh Phụ Ngâm Hán văn của Đặng Trần Côn, theo lối thơ trữ tình hoàn toàn Việt Nam là song thất lục bát.


Chinh Phụ Ngâm Khúc

của Ðoàn Thị Ðiểm (1705-1748)
nguyên tác của Ðặng Trần Côn (1715?-1745)

001 Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
002 Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
003 Xanh kia thăm thẳm tầng trên
004 Vì ai gây dựng cho nên nỗi này
005 Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt
006 Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
007 Chín tầng gươm báu trao tay
008 Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh
009 Nước thanh bình ba trăm năm cũ
010 Áo nhung trao quan vũ từ đây
011 Sứ trời sớm giục đường mây
012 Phép công là trọng, niềm tây sá nào
013 Ðường giong ruổi lưng đeo cung tiễn
014 Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa
015 Bóng cờ tiếng trống xa xa
016 Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng
017 Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt
018 Xếp bút nghiên theo việc đao cung
019 Thành liền mong tiến bệ rồng
020 Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời
021 Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
022 Gieo Thái Sơn như tựa hồng mao
023 Giã nhà đeo bức chiến bào
024 Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu
025 Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
026 Ðường bên cầu cỏ mọc còn non
027 Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn
028 Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền
029 Nước trong chảy lòng phiền chẳng rửa
030 Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó quên
031 Nhủ rồi tay lại trao liền
032 Bước đi một bước lại vin áo chàng
033 Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
034 Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên San
035 Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
036 Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo
037 Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử
038 Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba
039 Áo chàng đỏ tựa ráng pha
040 Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in
041 Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống
042 Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay
043 Hà Lương chia rẽ đường này
044 Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi
045 Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu
046 Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương
047 Quân đưa chàng ruổi lên đường
048 Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
049 Tiếng địch trổi nghe chừng đồng vọng
050 Hàng cờ bay trong bóng phất phơ
051 Dấu chàng theo lớp mây đưa
052 Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà
053 Chàng thì đi cõi xa mưa gió
054 Thiếp lại về buồng cũ gối chăn
055 Ðoái trông theo đã cách ngăn
056 Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh
057 Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại
058 Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
059 Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
060 Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
061 Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
062 Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
063 Ngàn dâu xanh ngắt một màu
064 Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
065 Chàng từ đi vào nơi gió cát
066 Ðêm trăng này nghỉ mát phương nao?
067 Xưa nay chiến địa dường bao
068 Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu
069 Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn
070 Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon
071 Ôm yên, gối trống đã chồn
072 Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh
073 Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại
074 Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua
075 Hình khe, thế núi gần xa
076 Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao
077 Sương đầu núi buổi chiều như giội
078 Nước lòng khe nẻo suối còn sâu
079 Não người áo giáp bấy lâu
080 Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây
081 Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ
082 Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?
083 Tưởng chàng giong ruổi mấy niên
084 Chẳn nơi Hãn Hải thì miền Tiêu Quan
085 Ðã trắc trở đòi ngàn xà hổ
086 Lại lạnh lùng những chỗ sương phong
087 Lên cao trông thức mây lồng
088 Lòng nào là chẳng động lòng bi thương!
089 Chàng từ sang Ðông Nam khơi nẻo
090 Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu?
091 Những người chinh chiến bấy lâu
092 Như xem tính mệnh như màu cỏ cây
093 Nức hơi mạnh, ơn dày từ trước
094 Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu?
095 Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo
096 Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
097 Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
098 Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
099 Chinh phu tử sĩ mấy người
100 Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?
101 Dấu binh lửa, nước non như cũ
102 Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương
103 Phận trai già cõi chiến trường
104 Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về
105 Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ
106 Ba thước gươm, một cỗ nhung yên
107 Xông pha gió bãi trăng ngàn
108 Tên reo đầu ngựa, giáo lan mặt thành
109 Áng công danh trăm đường rộn rã
110 Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi
111 Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai
112 Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây
113 Trong cửa này đã đành phận thiếp
114 Ngoài mây kia há kiếp chàng vay?
115 Những mong cá nước sum vầy
116 Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời
117 Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
118 Chàng há từng học lũ vương tôn
119 Cớ sao cách trở nước non
120 Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu
121 Khách phong lưu đương chừng niên thiếu
122 Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên
123 Nỡ nào đôi lứa thiếu niên
124 Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành
125 Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu
126 Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca
127 Nay quyên đã giục, oanh già
128 Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo
129 Thuở đăng đồ, mai chưa dạn gió
130 Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông
131 Nay đào đã quyến gió Ðông
132 Phù dung lại đã bên sông bơ sờ
133 Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy
134 Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm?
135 Ngập ngừng, lá rụng cành trâm
136 Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao
137 Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ
138 Chiều lại tìm, nào thấy tiêu hao?
139 Ngập ngừng gió thổi chéo bào
140 Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông
141 Tin thường lại, người không thấy lại
142 Gốc hoa tàn đã trải rêu xanh
143 Rêu xanh mấy lớp chung quanh
144 Sân đi một bước, trăm tình ngẩn ngơ
145 Thư thường tới, người không thấy tới
146 Bức rèm thưa lần dãi bóng dương
147 Bóng dương mấy buổi xuyên ngang
148 Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai
149 Thử tính lại diễn khơi ngày ấy
150 Tiền sen này đã nẩy là ba
151 Xót người lần lữa ải xa
152 Xót người nương chốn Hoàng Hoa dặm dài
153 Tình gia thất nào ai chẳng có
154 Kìa lão thân, khuê phụ nhớ thương
155 Mư già phơ phất mái sương
156 Con thơ măng sữa, vả đương phù trì
157 Lòng lão thân buồn khi tựa cửa
158 Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm
159 Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam
160 Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân
161 Nay một thân nuôi già dạy trẻ
162 Nỗi quan hoài mang mể biết bao!
163 Nhớ chàng trải mấy sương sao
164 Xuân từng đổi mới, Ðông nào còn dư
165 Kể năm đã ba tư cách diễn
166 Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang
167 Ước gì gần gũi tấc gang
168 Giãi niềm cay đắng để chàng tỏ hay
169 Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá
170 Gương lầu Tần dấu đã soi chung
171 Cậy ai mà gửi tới cùng?
172 Ðể chàng thấu hết tấm lòng tương tư
173 Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía
174 Ngọc cài đầu thuở bé vui tươi
175 Cậy ai mà gửi tới nơi
176 Ðể chàng trân trọng dấu người tương thân?
177 Trải mấy thu, tin đi tin lại
178 Tới xuân này tin hãy vắng không
179 Thấy nhàn, luống tưởng thư phong
180 Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng
181 Gió tây nổi không đường hồng tiện
182 Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa
183 Màn mưa trướng tuyết xông pha
184 Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài
185 Ðề chữ gấm, phong thôi lại mở
186 Gieo bói tiền tin dở còn ngờ
187 Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ
188 Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai
189 Há như ai, hồn say bóng lẫn
190 Bỗng thơ thơ thẩn thẩn hư không
191 Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng
192 Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo
193 Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
194 Bức rèm thưa rủ thác đòi phen
195 Ngoài rèm thước chẳng mách tin
196 Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
197 Ðèn có biết, dường bằng chẳng biết
198 Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
199 Buồn rầu nói chẳng nên lời
200 Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
201 Gà eo óc gáy sương năm trống
202 Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên
203 Khắc giờ đằng đẵng như niên
204 Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa
205 Hương gượng đốt, hồn đà mê mải
206 Gương gượng soi, lệ lại chứa chan
207 Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
208 Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng
209 Lòng này gửi gió đông có tiện
210 Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
211 Non Yên dù chẳng tới miền
212 Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
213 Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
214 Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
215 Cảnh buồn người thiết tha lòng
216 Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun
217 Sương như búa bổ mòn gốc liễu
218 Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô
219 Giọt sương phủ bụi chim gù
220 Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi
221 Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc
222 Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên
223 Lá màn lay ngọn gió xuyên
224 Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm
225 Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm
226 Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông
227 Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng
228 Trước hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đau
229 Ðâu xiết kể, muôn sầu nghìn não
230 Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi
231 Biếng cầm kim, biếng đưa thoi
232 Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa
233 Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói
234 Sớm lại chiều, dòi dõi nương song
235 Nương song luống ngẩn ngơ lòng
236 Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
237 Biếng trang điểm, lòng người sầu tủi
238 Xót nỗi chàng, ngoài cõi trùng quan
239 Khác gì ả Chức, chị Hằng
240 Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng
241 Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối
242 Buồn chứa đầy, hãy thổi làm cơm
243 Mượn hoa, mượn rượu giải buồn
244 Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi
245 Gõ sanh ngọc mấy hồi không tiếng
246 Ôm đàn tranh mấy phím rời tay
247 Xót người hành dịch bấy nay
248 Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi
249 Ca quyên ghẹo, làm rơi nước mắt
250 Trống tiều khua, như đốt buồng gan
251 Võ vàng đổi khác dung nhan
252 Khuê ly mới biết tân toan dường này
253 Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ
254 Chua cay này, há có vì ai?
255 Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi
256 Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề
257 Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng
258 Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn
259 Duy còn hồn mộng được gần
260 Ðêm đêm thường đến Giang Tân tìm người
261 Tìm chàng thuở Dương Ðài lối cũ
262 Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa
263 Sum vầy mấy lúc tình cờ
264 Chẳng qua trên gối một giờ mộng Xuân
265 Giận thiếp thân lại không bằng mộng
266 Ðược gần chàng bến Lũng, thành Quan
267 Khi mơ những tiếc khi tàn
268 Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không!
269 Duy có một tấm lòng chẳng dứt
270 Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi
271 Lòng theo song chửa thấy người
272 Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe
273 Trông bến Nam, bãi che mặt nước
274 Cỏ biếc um, dâu mướt ngàn xanh
275 Nhà thôn mấy xóm chông chênh
276 Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm
277 Trông đường Bắc, đôi chòm quán khách
278 Rườm rà xanh cây ngất núi non
279 Lúa thành thoi thóp bên cồn
280 Nghe thôi địch ngọc véo von bên lầu
281 Non Ðông thấy lá hầu chất đống
282 Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai
283 Khói mù nghi ngút ngàn khơi
284 Con chim bạt gió lạc loài kêu thương
285 Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc
286 Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu
287 Ngàn thông chen chúc khóm lau
288 Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về
289 Trông bốn bề chân trời mặt đất
290 Lên xuống lầu thấm thoát đòi phen
291 Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn
292 Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc Quan?
293 Gậy rút đất dễ khôn học chước
294 Khăn gieo cầu nào được thấy tiên
295 Lòng này hóa đá cũng nên
296 E không lệ ngọc mà lên trông lầu
297 Lúc ngảnh lại ngắm màu dương liễu
298 Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong
299 Chẳng hay muôn dặm ruổi giong
300 Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng?
301 Lòng chàng ví cũng bằng như thế
302 Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa
303 Hướng dương lòng thiếp như hoa
304 Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương
305 Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái
306 Hoa để vàng bởi tại bóng dương
307 Hoa vàng hoa rụng quanh tường
308 Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần
309 Chồi lan nọ trước sân đã hái
310 Ngọn tần kia bên bãi đưa hương
311 Sửa xiêm dạo bước tiền đường
312 Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẫn thờ
313 Bóng Ngân Hà khi mờ khi tỏ
314 Ðộ Khuê Triền buổi có buổi không
315 Thức mây đòi lúc nhạt hồng
316 Chuôi sao Bắc Ðẩu thôi Ðông lại Ðoài
317 Mặt trăng tỏ thường soi bên gối
318 Bừng mắt trông sương gội cành khô
319 Lạnh lùng thay, bấy nhiêu Thu
320 Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi
321 Một năm một nhạt mùi son phấn
322 Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi
323 Xưa sao hình ảnh chẳng rời
324 Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương
325 Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ
326 Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in
327 Gió Xuân ngày một vắng tin
328 Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì
329 Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy
330 Trước gió xuân vàng tía sánh nhau
331 Nọ thì ả Chức chàng Ngâu
332 Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông
333 Thương một kẻ phòng không luống giữ
334 Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau
335 Thoi đưa ngày tháng ruổi mau
336 Người đời thấm thoắt qua màu xuân xanh
337 Xuân thu để giận quanh ở dạ
338 Hợp ly đành buồn quá khi vui
339 Oán sầu nhiều nỗi tơi bời
340 Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân
341 Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước
342 E đến khi đầu bạc mà thương
343 Mặt hoa nọ gã Phan Lang
344 Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng
345 Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở
346 Tiếc quang âm lần lữa gieo qua
347 Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa
348 Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ giòng
349 Gác nguyệt nọ mơ màng vẻ mặt
350 Lầu hoa kia phảng phất mùi hương
351 Trách trời sao để nhỡ nhàng
352 Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên
353 Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội
354 Cũng dập dìu, chẳng vội phân trương
355 Chẳng xem chim yến trên rường
356 Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau
357 Kìa loài sâu đôi đầu cùng cánh
358 Nọ loài chim chắp cánh cùng bay
359 Liễu, sen là thức cỏ cây
360 Ðôi hoa cũng dính, đôi dây cũng liền
361 Ấy loài vật tình duyên còn thế
362 Sao kiếp người nỡ để đấy đây?
363 Thiếp xin về kiếp sau này
364 Như chim liền cánh, như cây liền cành
365 Ðành muôn kiếp chữ tình đã vậy
366 Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau
367 Thiếp xin: “Chàng chớ bạc đầu
368 Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung”
369 Xin: “làm bóng theo cùng chàng vậy,
370 “Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên
371 “Chàng nương vầng nhật, thiếp nguyền
372 “Mọi bề trung hiều, thiếp xin vẹn tròn”
373 Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt
374 Sức tý dân dường sắt trơ trơ
375 Máu Thuyền Vu, quắc Nhục Chi
376 Ấy thì bữa uống, ấy thì bữa ăn
377 Mũi đòng vác đòi lần hăm hở
378 Ðã lòng trời gìn giữ người trung
379 Hộ chàng trăm trận nên công
380 Buông tên ải Bắc, treo cung non Ðoài
381 Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải
382 Tiếng khải ca trở lại Thần Kinh
383 Ðỉnh non kia, đá đề danh
384 Triều thiên vào trước cung đình dâng công
385 Nước Ngân Hán vác đòng rửa sạch
386 Khúc nhạc từ réo rắt lừng khen
387 Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền
388 Tên ghi gác Khói, tượng truyền đài Lân
389 Nền huân tướng nên công rạng vẻ
390 Chữ đồng hưu bia thẻ nghìn đông
391 Ơn trên: tử ấm thê phong
392 Phần vinh thiếp cũng đượm chung hương trời
393 Thiếp chẳng dại như người Tô Phụ
394 Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương
395 Khi về đeo quả ấn vàng
396 Trên khung cửi dám rẫy ruồng làm cao
397 Xin vì chàng xếp bào cởi giáp
398 Xin vì chàng giũ lớp phong sương
399 Vì chàng tay chuốc chén vàng
400 Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng
401 Mở khăn lệ, chàng trông từng tấm
402 Ðọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu
403 Câu vui đổi với câu sầu
404 Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời
405 Sẽ rót vơi lần lần từng chén
406 Sẽ ca dần ren rén từng thiên
407 Liên ngâm đối ẩm đòi phen
408 Cùng chàng lại kết mối duyên đến già
409 Cho bõ lúc xa sầu, cách nhớ
410 Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình
411 Ngâm nga mong gửi chữ tình
412 “Dường này âu hẳn tài lành trượng phu!”.

(Sưu tầm)