" Đâu Cũng nh - Nh v quê hương - Ci ngun dân tc - M

y ai mà quên?" (TKL)

Tìm kiếm Blog này

Chủ Nhật, 12 tháng 9, 2021

Ca khúc mới: Tình ca dâng đời (56): Chúa ở tại tâm (Nhạc và lời: Trần Kim Lan)

 Ca khúc mới: Tình ca dâng đời (56): Chúa ở tại tâm (Nhạc và lời: Trần Kim Lan)

Chỉ còn khoảng 3 tuần nữa là tròn 1 năm Trần kim Lan không hề viết thơ (ca khúc), chỉ thỉnh thoảng viết thơ "Hai câu" và nghĩ rằng sẽ "gác bút", không sáng tác thêm ca khúc nữa, vì cảm thấy đủ và muốn "nghỉ hưu", thế nhưng, cảm xúc lại đến... có lẽ là Thiên Chúa nhắc nhở, vì cũng có ý định, nếu viết tiếp, sẽ chỉ viết Thánh ca... Gần 1 năm không hề viết nhạc, nên hôm nay phải mất 2 tiếng 30 phút mới xong bản nhạc trên Encore, vì quên mất đánh dấu luyến thế nào... lại phải tìm cẩm nang chép tay (may mà lưu lại), nên hơi chậm so với trước đây, cũng may mà vẫn nhớ tất cả dù sắp "gần Trời xa thế"! Tạ ơn Chúa! (6.10.2020/12.9.2021/Trần Kim Lan)


Cuối nẻo dương trần: 213.Chúa ở tại tâm


Xin người đừng hỏi: “Thiên đường ở đâu?“`

Xin người đừng hỏi: “Thiên Chúa ở đâu?“

Khi cuộc đời gặp khó khăn, vận hạn

Xin hãy bình tâm và hãy nguyện cầu!


Chúa sẽ hiện hữu, cứu giúp âm thầm

Dù nẻo chông gai, hay nẻo bình an

Như Chúa Giê-su vác Thập tự giá

Vượt qua địa ngục, sẽ thấy Thiên đường!


Thiên đường ở đâu, địa ngục nơi nào?

Ai Chúa mở mắt, sẽ thấy trời cao

Chúa ở tại tâm, tâm người Thánh thiện

Vững tin, cầu nguyện, sẽ với trời sao!


Thứ Sáu 10.9.2021/Trần Kim Lan






Cuối nẻo dương trần: 213.Chúa ở tại tâm

 Chỉ còn khoảng 3 tuần nữa là tròn 1 năm Trần kim Lan không hề viết thơ (ca khúc), chỉ thỉnh thoảng viết thơ "Hai câu" và nghĩ rằng sẽ "gác bút", không sáng tác thêm ca khúc nữa, vì cảm thấy đủ và muốn "nghỉ hưu", thế nhưng, cảm xúc lại đến... có lẽ là Thiên Chúa nhắc nhở, vì cũng có ý định, nếu viết tiếp, sẽ chỉ viết Thánh ca... Gần 1 năm không hề viết nhạc, nên hôm nay phải mất 2 tiếng 30 phút mới xong bản nhạc trên Encore, vì quên mất đánh dấu luyến thế nào... lại phải tìm cẩm nang chép tay (may mà lưu lại), nên hơi chậm so với trước đây, cũng may mà vẫn nhớ tất cả dù sắp "gần Trời xa thế"! Tạ ơn Chúa! (6.10.2020/12.9.2021/Trần Kim Lan)


Cuối nẻo dương trần: 213.Chúa ở tại tâm


Xin người đừng hỏi: “Thiên đường ở đâu?“`

Xin người đừng hỏi: “Thiên Chúa ở đâu?“

Khi cuộc đời gặp khó khăn, vận hạn

Xin hãy bình tâm và hãy nguyện cầu!


Chúa sẽ hiện hữu, cứu giúp âm thầm

Dù nẻo chông gai, hay nẻo bình an

Như Chúa Giê-su vác Thập tự giá

Vượt qua địa ngục, sẽ thấy Thiên đường!


Thiên đường ở đâu, địa ngục nơi nào?

Ai Chúa mở mắt, sẽ thấy trời cao

Chúa ở tại tâm, tâm người Thánh thiện

Vững tin, cầu nguyện, sẽ với trời sao!


Thứ Sáu 10.9.2021/Trần Kim Lan

Thứ Năm, 8 tháng 10, 2020

Đường hầm ST Pauli - Elbtunel (Trần Kim Lan)

 Bản nhạc Tình ca dâng đời (56): Đường hầm ST Pauli - Elbtunel (Trần Kim Lan)

Cuối nẻo dương trần (thơ tự do): 211.Đường hầm ST Pauli - Elbtunel 


Xưa kia Chúa Trời rẽ sóng trùng dương

Mở lối dân Chúa vượt qua biển cả

Kẻ nghịch thù đuổi theo, chết ngập đường

Dân Chúa bình an đến miền Đất Hứa.


Dưới lòng sông Elbe, có đường hầm ST Pauli-Elbtunel

Mà loài người cũng muốn được như Chúa

Lấp biển, ngăn sông, mở lối người đi

Đường hầm thông thương, xác người chất chứa!


Ngày nay, Pauli- Elbtunel tấp nập người qua

Du khách vượt hầm, ngậm ngùi tiếc nuối

Thương xót người xưa, thương kiếp thân hoa.

Nâng bước chân ta, bao đời lỡ dở!


Tạ ơn bao người đã vào thiên cổ

Tại ơn Chúa Trời cho con người nên kỳ vĩ!


Hamburg Chúa Nhật ngày 13.9.2020Trần Kim Lan




Tình ca dâng Chúa, dâng đời (Trần Kim Lan)

 Bản nhạc Tình ca dâng đời (56): Tình ca dâng Chúa, dâng đời (Trần Kim Lan)

Cuối nẻo dương trần (thơ tự do): 210.Tình ca dâng Chúa, dâng người 


Dạo quanh phố cảng chớm thu sang

Văng vẳng tình ca thánh thót ngân

Giao hưởng trầm hùng dồn dập khúc

Từ Elbphihamonie vọng đến khắp trần gian!


Nhà thờ Nikolai sừng sững không trung

Khắc dấu chiến tranh khiến hãi hùng

Tổng lãnh Thiên Thần Michaelis giương cánh đỡ

Hamburg khổ qua, nắng lại hừng!


Dạo quanh phố cảng chớm thu sang

Vượt khỏi hầm Elbe thổn thức tràn

Dâng Chúa tình ca, người khuất bóng

Thiên Thần nâng cánh bước phong vân!


Hamburg Chúa Nhật ngày 13.9.2020/Trần Kim Lan




Phố cảng Hamburg ngày thu (Trần Kim Lan)

 Bản nhạc Tình ca dâng đời (56): Phố cảng Hamburg ngày thu (Trần Kim Lan)
Cuối nẻo dương trần (thơ tự do): 209.Phố cảng Hamburg ngày thu 

Phố cảng ngày thu thiếu dáng anh

Vui buồn xao xác ước mơ xanh

Nhớ xưa Hamburg đan tay bước

Tuyết trắng bay bay dệt mộng lành!


Phố cảng hôm nay nắng trải vàng

Dòng Elbe lóng lánh thuyền tình sang

Hải âu nghiêng cánh chào người cũ

Sao thế, người ơi! Thiếu dáng chàng?


Phố cảng Hamburg nhộn nhịp người

Rì rào sóng hát biển tình khơi

Bồng bềnh thuyền sóng, bồng bềnh mộng

Thấp thoáng dáng anh giữa biển trời!


Hamburg Chúa Nhật ngày 13.9.2020Trần Kim Lan




Nhạc sĩ không biết chơi đàn (Trần Kim Lan)

 Tạ ơn Thiên Chúa, Ta ơn Đức Mẹ Maria, đã dẫn lối, cầm tay con, để con có thể tìm được hướng dẫn học đàn Organ miễn phí trên mạng và con đã dành thời gian chép 10 bài học và bắt đầu học đàn từ ngày 6.8.2020 cho đến ngày 6.9.2020 thì con đã có thể hình dung chơi đàn Organ ra sao và từ ngày 7.9 - 24.9 bắt đầu luyện 2 tay (kết hợp hợp âm), vừa đàn vừa hát, bắt đầu bài thứ 3... Đang cảm thấy hứng thú thì lại sưng 2 ngón tay phải do thời tiết bắt đầu lạnh... đành phải tạm ngừng học đàn... dù rằng chỉ như "mổ cò" chứ không phải là dạo nhạc... Nhưng cũng cảm thấy vui vui... Tuy việc học còn "cưỡi ngựa xem hoa", tức là vừa học vừa chơi, trong 1 tháng chỉ thỉnh thoảng mới ngồi vào đàn và khoảng 15, 20 phút là nghỉ... vì mệt qúa! Hy vọng tay sớm khóe, để lại tiếp tục "sự nghiệp" và không chắc có nhớ và đàn kết hợp với hợp âm 2 tay được không? Hy vọng và hy vọng! (Thứ Bảy ngày 3.10.2020Trần Kim Lan)

Bản nhạc Tình ca dâng đời (56): Nhạc sĩ không biết chơi đàn (Trần Kim Lan)

CNDT (Thơ tự do): 208:  Nhạc sĩ không biết chơi đàn


Nhạc sĩ không biết chơi đàn (aha)

Có đàn nhưng chỉ biết ngắm (ôhô)

Đàn nhìn nhạc sĩ thở than

Nhạc sĩ nhìn đàn than thở (ư hư)


Nhạc sĩ không biết chơi đàn (aha)

Chúa ơi! Chúa giúp con với (ơhờ)

Mân côi cầu Mẹ âm thầm

Đàn kia vẫn âm thầm đợi (ưhư)


Nhạc sĩ bắt đầu học đàn (aha)

Chúa cầm tay giúp con nhé (ơờ)

Đàn ơi! Đàn hãy ngân nga

Tình ca dâng đời“ lướt sóng (lálalalalalá)


Thứ Hai ngày 29.6.2020Trần Kim Lan






Thứ Năm, 11 tháng 6, 2020

Bản nhạc: Tình ca dâng đời (56) Mùa hoa phượng vĩ (Trần Kim Lan)

Bản nhạc: Tình ca dâng đời (56) (Trần Kim Lan)

Cuối nẻo dương trần: 207.Mùa hoa phượng vĩ
Mùa hè mùa hoa phượng vĩ
Ve rung cánh phượng thầm thì
"Hè về, hè vui lắm nhé
Ôi! Mùa hẹn ước, chia ly!"
Mùa hè mùa hoa phượng vĩ
Phượng thắm nụ cười học trò
Ve ra rả khúc xao xuyến
Cháy bỏng khát khao, ước mơ!
Mùa hè mùa hoa phượng vĩ
Rực rỡ đất trời muôn nơi
Phượng, ve, học trò lưu luyến
Theo ta theo đến muôn đời!
Mùa hè mùa hoa phượng vĩ
Học trò níu cánh phượng rơi
Phương, ve níu trò tri kỷ
Níu ước mơ đời, người ơi!
9.6.2020/Trần Kim Lan


Mùa hoa phượng vĩ (Thơ Trần Kim Lan)


Cuối nẻo dương trần: 207.Mùa hoa phượng vĩ

Mùa hè mùa hoa phượng vĩ
Ve rung cánh phượng thầm thì
"Hè về, hè vui lắm nhé
Ôi! Mùa hẹn ước, chia ly!"
Mùa hè mùa hoa phượng vĩ
Phượng thắm nụ cười học trò
Ve ra rả khúc xao xuyến
Cháy bỏng khát khao, ước mơ!
Mùa hè mùa hoa phượng vĩ
Rực rỡ đất trời muôn nơi
Phượng, ve, học trò lưu luyến
Theo ta theo đến muôn đời!
Mùa hè mùa hoa phượng vĩ
Học trò níu cánh phượng rơi
Phương, ve níu trò tri kỷ
Níu ước mơ đời, người ơi!
9.6.2020/Trần Kim Lan





Thứ Tư, 22 tháng 4, 2020

Quy tắc viết hoa trong tiếng Việt cần lưu ý những điều gì?

Quy tắc viết hoa trong tiếng Việt cần 

lưu ý những điều gì?

Vấn đề viết Hoa là một trong những phần quan trọng về chính tả 
mà ai cũng cần biết. Sau đây là quy tắc viết hoa trong tiếng Việt đầy đủ nhất 
để bạn tham khảo và vận dụng cho đúng nhé.
Mặc dù trong ngôn ngữ tiếng Việt có rất nhiều thể loại văn bản khác nhau. Nhưng quy tắc viết hoa trong tiếng Việt giữa các văn bản này không có nhiều sự khác biệt, vẫn tồn tại ở đó những quy tắc chính tả, viết hoa trong văn bản xác định cần đúng quy chuẩn được đặt ra. Đặc biệt trong công cuộc “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” nhằm mục đích thống nhất và chuẩn hóa ngôn ngữ tiếng Việt tốt hơn với mọi người. Trong đó, vấn đề viết hoa cũng là nội dung quan trọng và được nhiều người quan tâm trong vấn đề này. Viết hoa đúng theo quy định của tiếng Việt không phải là chuyện đơn giản. Bởi, tiếng Việt ngày nay sử dụng mẫu tự Latin nên có quy định về vấn đề viết hoa.
quy tắc viết hoa trong tiếng Việt
Quy tắc viết hoa trong tiếng Việt rất đa dạng mà bạn cần nắm vững lý thuyết để áp dụng vào viết đúng trong những trường hợp cụ thể. Dưới đây là những trường hợp mà bạn cần phải áp dụng quy tắc viết hoa trong tiếng Việt khi thực hiện các văn bản hay viết chữ.

1. Viết hoa phụ âm đầu của chữ đứng đầu câu

Bất kỳ trong trường hợp nào bạn mở đầu một câu đều cần phải viết hoa chữ cái đầu tiên, chữ đầu tiên nếu từ đó không có phụ âm đầu. Đó là sự đánh dấu mốc bắt đầu một câu để người đọc có thể nhận biết, giúp câu văn rõ ràng, mạnh lạc, ý tưởng khúc chiết, dễ tiếp thu. Quy định viết hoa này bắt buộc trong chuẩn chính tả tiếng Việt hiện đại, được thống nhất trên toàn quốc hay sử dụng tiếng Việt ở bất kì nơi đâu khi soạn thảo văn bản và sử dụng tiếng Việt đều cần tuân theo quy định này.
Theo các nhà nghiên cứu, quy định này xác lập chưa lâu lắm. Trong khi, chữ quốc ngữ ra đời vào thế kỷ 17, lúc đó chưa có quy định viết hoa này. Theo sách Phép giảng tám ngày của Alexandre De Rhodes in bản tiếng Latin – Việt năm 1651, quy định viết chữ quốc ngữ là “viết hoa ở đoạn xuống hàng và thụt đầu dòng” còn các câu trong đoạn văn sẽ viết thường tất kể cả chữ cái đầu.
Lối viết hoa chữ cái đầu của một từ xuất hiện vào tháng 4/1865 trên tờ báo Gia Định, tờ báo dùng chữ quốc ngữ đầu tiên ở nước ta. Từ đó, lối viết hoa chữ cái đầu này được áp dụng. Những trường hợp mở đầu một câu như sau:

1.1. Viết hoa sau dấu chấm

Mở đầu văn bản, mở đầu đoạn người ta đều viết hoa phụ âm/âm đầu của từ đầu tiên. Đặc biệt cứ sau dấu chấm câu, người ta phải viết hoa phụ âm đầu của từ đứng đầu câu kế tiếp. Cùng với dấu chấm câu còn có dấu chấm hỏi (?), dấu chấm than (!) còn gọi là dấu cảm thán là những dấu kết thúc một câu. Cho nên, từ đứng sau những dấu này đều phải viết hoa phụ âm/âm đầu tiên của từ.
Riêng dấu chấm lửng có những khác biệt một chút. Dấu chấm lửng có thể là để kết thúc một câu, có thể nằm ở giữa câu khi liệt kê hay do ý định của người viết để diễn tả sự ngắt quãng, gây bất ngờ hay muốn kéo dài về âm thanh. Do đó, khi dấu chấm lửng đứng ở cuối câu, từ đầu tiên của câu kế tiếp sẽ phải viết hoa theo quy định. Khi dấu chấm lửng đặt ở giữa câu với những chủ ý của người viết sẽ không viết hoa từ tiếp sau đó.
Ví dụ: Vườn hoa quả trồng nhiều loại cây như mít, chuối, cam, chanh… xanh tươi, rất sai quả.
Lòng ta rộn rã nỗi yêu thương… (trích thơ Hàn Mặc Tử)

1.2. Quy định về viết hoa sau dấu hai chấm

Từ đứng sau dấu hai chấm có trường hợp viết hoa, có trường hợp không. Quy định này vẫn chưa rõ ràng, thống nhất nên có nhiều ý kiến khác nhau.

1.3. Quy định về viết hoa sau dấu chấm phẩy

Đối với dấu chấm phẩy, quy định viết hoa cũng giống như trong dấu chấm lửng, tùy vào từng trường hợp mà viết hoa. Những câu văn ngăn bởi các dấu chấm phẩy khá độc lập về ngữ nghĩa, thông thường, chữ tiếp theo sau vẫn viết thường.
Trong các văn bản hành chính, đặc biệt ở phần “căn cứ”, “xét đề nghị” và “chiếu theo” nêu ở đầu đoạn sẽ xuống dòng và viết hoa theo quy định sau các dấu chấm phẩy.

2. Quy định về viết hoa tu từ

Thông thường, trong quy tắc viết hoa trong tiếng Việt, người ta sẽ không viết hoa danh từ chung nếu không nằm ở đầu câu. Riêng trong những trường hợp nhất định, người ta muốn nhấn mạnh một từ nào đó, muốn từ này mang sắc thái biểu cảm, người ta sẽ viết hoa. Ví dụ: Con Người, hai tiếng vang lên… (M.Gorki)
Như vậy, viết hoa danh từ chung thường thể hiện sự tôn kính, làm câu văn thêm độc đáo hơn. Đây gọi là lối viết hoa tu từ.
Những danh từ chung ghi tước vị, chức vụ, cấp bậc hoặc những yếu tố gắn với tên riêng như các bậc danh nhân thường áp dụng cách viết hoa tu từ. Tuy nhiên, thực tế, cách viết này cũng đa dạng, không có sự thống nhất.
Ví dụ: Phù Đổng Thiên Vương hoặc Phù Đổng thiên vương hay Phù Đổng Thiên vương. Cũng như người ta thường phân vân không biết viết chúa Nguyễn, chúa Trịnh hay Chúa Nguyễn, Chúa Trịnh; vua Lê, vua Nguyễn hay Vua Lê, Vua Nguyễn. Viết chữ nghè Tân, trạng Quỳnh, tú Xương… hay Nghè Tân, Trạng Quỳnh, Tú Xương… Do đó, đây là hai cách viết vẫn được mọi người sử dụng hiện nay, chưa có sự thống nhất.
Lối viết hoa tu từ có trước so với lối viết hoa cú pháp. Xuất hiện từ khi có chữ quốc ngữ vào thế kỷ 17, viết hoa tu từ và viết hoa cú pháp đều được người Việt sử dụng lâu nay.
Tuy nhiên, cách viết hoa này có một số điểm sẽ đối lập với danh từ chung và danh từ riêng, đặc biệt trong cách viết hoa gọi tên cơ quan, tổ chức, đoàn thể và sản phẩm. Trong khi đó, cách viết hoa là để phân biệt giữa danh từ riêng và chung trong cách thể hiện văn bản.

3. Quy định về cách viết hoa trong tiếng Việt với danh từ riêng

Theo định nghĩa ấn phẩm Hoạt động của từ tiếng Việt của Đái Xuân Ninh biên soạn do NXB Khoa học xã hội, HN 1978, danh từ riêng chỉ tên gọi của một vật, một người hay một tập thể riêng biệt. Xét về chức năng ý nghĩa, danh từ riêng và danh từ chung có sự phân biệt rõ ràng. Trong đó, danh từ chung dùng để gọi tên một loạt sự vật, không gọi riêng từng sự vật riêng. Điểm khác biệt với danh từ riêng là danh từ chung sẽ chứa đựng nội dung ý nghĩa nhất định, bao gồm cả tên gọi một sự vật duy nhất như mặt trăng, mặt trời.
Trong quy định về văn bản tiếng Việt, danh từ riêng có điểm đặc thù là bao giờ cũng viết hoa. Tuy nhiên, trong chuyên luận Tiếng Việt trên đường phát triển – NXB Khoa học xã hội, HN 1982 có viết hoa danh từ riêng không có sự ổn định và thống nhất theo một chuẩn riêng. Sau đây, chúng ta sẽ xem xét quy định viết hoa họ tên người và địa danh để thấy sự đa dạng.
Quy tắc viết hoa danh từ riêng trong tiếng Việt mà bạn cần biết.

3.1. Quy định cách viết hoa họ tên người

Dù cùng một họ tên người nhưng người ta sử dụng song song nhiều cách viết hoa khác nhau lâu nay. Ví dụ viết họ tên người Công Huyền Tôn Nữ Lưu Ly hay Công huyện tôn nữ lưu Ly, Công huyền Tôn nữ Lưu Ly, Công – Huyền – Tôn – Nữ - Lưu Ly.

3.2. Quy định cách viết hoa tên địa danh

Quy định cách viết hoa địa danh cũng tồn tại nhiều cách khác nhau. Ví dụ như cách viết Sài Gòn, Sài-Gòn, Sài gòn… Vào năm 1984, theo Quyết định số 240/QĐ, thống nhất trên toàn quốc về chuẩn chính tả, về quy tắc viết hoa trong tiếng Việt do Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Thị Bình ký như sau: Cách viết tên người, tên nơi chốn sẽ viết hoa chữ cái đầu là phụ âm/âm đầu không dùng gạch nối. Ví dụ như Quang Trung, Vũng Tàu, Hà Nội… Chuẩn chính tả này áp dụng trong tất cả các văn bản.
Nhưng thực tế, nhiều người vẫn băn khoăn viết miền Nam hay Miền Nam, Bắc Bộ hay Bắc bộ. Đặc biệt thêm tọa độ càng lúng túng hơn như miền cực Nam Trung Bộ hay Miền Cực Nam Trung Bộ hay miền cực nam Trung Bộ? Viết là sông Hồng hay Sông Hồng, Đồng Bằng Sông Cửu Long hay đồng bằng sông Cửu Long.
Thêm nữa viết hoa cấp bậc, tước vị, biệt hiệu hay chức vụ không cũng chưa có sự thống nhất chuẩn. Ví dụ như viết Xuân tóc đỏ hay Xuân Tóc Đỏ…

3.3. Quy định cách viết hoa tên riêng không phải tiếng Việt

Trường hợp viết tiếng nước ngoài du nhập, không phải tiếng Việt được quy định trong Quyết định 240/QĐ trong Quy định về chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt có ghi:
* Nếu tên riêng dùng nguyên chữ của chữ cái Latin sẽ giữ đúng nguyên bản tất cả các chữ cái còn dấu phụ trong nguyên ngữ có thể lược đi. Ví dụ như tên Paris, Petofi, Shakespeare…
* Nếu tên riêng có nguyên ngữ thuộc hệ thống chữ cái khác tiếng Việt sẽ dùng lối chuyển từ sang chữ cái Latin. Ví dụ Moskva, Lomonosov
* Nếu tên riêng có nguyên ngữ không ghi từng âm bằng chữ cái sẽ dùng lối phiên âm chính thức của chữ cái Latin. Đó là cách phiên âm được dùng trên thế giới phổ biến. Ví dụ như Kyoto, Tokyo…
* Nếu tên riêng được sử dụng rộng rãi trên thế giới theo hệ thống chữ cái Latin khác với nguyên ngữ sẽ dùng tên riêng vẫn được mọi người dùng. Ví dụ như Bangkok có nguyên ngữ là Krung Thep hay Hungary có nguyên ngữ là Magyarorszag.
* Trường hợp tên viết sông núi sẽ dùng tên gọi phổ biến mà thế giới thường dùng vì sông núi rộng lớn có mặt ở nhiều quốc gia lãnh thổ. Đồng thời, những tên riêng theo từng địa phương vẫn có mặt ở những văn bản khác nhất định. Ví dụ như sông Danube/Duna/Donau/Dunares…
* Sẽ dùng lối dịch nghĩa phù hợp cho những tên riêng, bộ phận tên riêng có nghĩa. Ví dụ như Guinea xích đạo, Biển Đen.
* Tên riêng có phiên âm quen dùng trong tiếng Việt sẽ không cần thay đổi trừ trường hợp có yêu cầu đặc biệt. Ví dụ như Bắc Kinh, Pháp, Hy Lạp hay Lỗ Tấn… Có khác biệt như Ý hay Italia, Úc hay Australia. Có một số tên riêng sử dụng các cách viết, tên gọi khác như La Mã hay Roma…
* Trong ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam, tên riêng không phải tiếng Kinh cũng khó có sự thống nhất. Nhiều tên riêng được viết theo các kiểu khác nhau vẫn tồn tại như Moskva/Moscou/Moscow/Mát-xcơ-va/Matxcơva/Mạc Tư Khoa hay Shakespeare/Sếch-xpia/Xêchxpia.
* Trường hợp danh từ chung như mặt trời/quả đất theo quy định sẽ không viết hoa nhưng sách báo vẫn in Mặt trời/Quả đất. Nếu xét trên bình diện danh từ chung và danh từ riêng, trường hợp này rất dễ nhầm lẫm.

4. Quy định về quy tắc viết hoa trong tiếng Việt để biệt hóa tên cơ quan, tổ chức, đoàn thể và sản phẩm

Những tên riêng của cơ quan, tổ chức, công ty, xí nghiệp, đoàn thể hay sở, ban, trường học, phòng và sản phẩm sẽ là những danh từ riêng hoặc chỉ chứa một vài danh tư riêng. Theo bản Quy định về chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt với Quyết định 240/QĐ quy định:
Quy tắc viết hoa tên riêng cơ quan, công ty, xí nghiệp trong tiếng Việt.

4.1. Quy định về viết hoa tên riêng của các cơ quan, tổ chức

* Viết hoa chữ cái đầu/âm tiết đầu của từ đầu tiên trong tổ hợp từ dùng gọi tên riêng của tổ chức, cơ quan. Ví dụ Trường đại học ngoại ngữ Hà Nội, Trường đại học công nghiệp Hà Nội… Nhưng trong văn bản lại in rõ Bộ Giáo Dục. Từ “Bộ Giáo Dục” là ngược với quy định về quy tắc viết hoa trong tiếng Việt trong nội dung văn bản quyết định. Lẽ ra phải viết là Bộ giáo dục mới đúng quy chuẩn.
Trong khi đó, thực tế cũng không áp dụng nghiêm túc điều này vì những lý do: Nhiều khi tên gọi của các cơ quan, xí nghiệp, đoàn thể thường rất dài, bao gồm đầy đủ cấp độ của tổ chức, cơ quan đó trong hệ thống nào đấy. Ví dụ, Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất, thương mại, dịch vụ và xuất nhập khẩu lương thực, thực phẩm…, Trường đại học công nghiệp, kỹ thuật Hưng Yên.
* Nhiều trường hợp, danh từ chung sử dụng làm danh từ riêng khi gọi tên sản phẩm hay cơ quan. Cách viết cũng tồn tại nhiều kiểu. Ví dụ như Tạp chí Tài Hoa Trẻ/Tài hoa trẻ, Báo Giáo dục và Thời đại/Giáo dục và Thời đại/Giáo Dục và Thời Đại. Nhưng người ta thường viết hoa tất cả các cụm từ như Thế Giới Mới, Khoa Học Phổ Thông, Nhân Dân… Theo đó, có người cho rằng tên các tác phẩm cũng phải viết hoa cả cụm từ như tiểu thuyết Gánh Hàng Hoa, tập truyện Anh Phải Sống hay bức tranh Thiếu Nữ Bên Hoa Huệ… Thậm chí có người cho rằng viết hoa tất cả như Xí Nghiệp Bóng Đèn-Phích Nước Rạng Đông Hà Nội.

4.2. Xu hướng viết hoa không theo âm tiết mà theo từ đối với tên gọi cơ quan, tổ chức

Xu hướng viết hoa tên gọi cơ quan, tổ chức hiện nay có nhiều cách khác nhau, chưa có thống nhất chung và sử dụng. Tuy nhiên, người ta thường viết hoa chữ cái đầu của từ đầu tiên và các từ của bộ phận tạo thành tên riêng như Bộ Thông tin, Tuyên truyền, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà hát Cải Lương Trần Hữu Trang, Hội sinh viên Việt Nam, Phòng Nghiên cứu khoa học. Nhưng có trường hợp viết Nhà hát Tuồng Đào Tấn lại dễ gây ngộ nhận nên cần viết là Nhà hát tuồng Đào Tấn nhưng không có nhiều.
Vì chưa có sự thống nhất nên những chuyên gia ngôn ngữ cho rằng cần chuẩn hóa chính tả tiếng Việt càng sớm càng tốt để có sự nhất trí cao dựa trên cơ sở khoa học áp dụng cho tiếng Việt. Để khắc phục tình trạng rối rắm trong cách viết hoa như hiện nay, chúng ta cần có những khảo sát và nghiên cứu triệt để.
Với những thông tin chia sẻ về quy tắc viết hoa trong tiếng Việt ở trên, bạn có thể tham khảo để thấy sự đa dạng của tiếng Việt và có thể linh hoạt sử dụng sao cho phù hợp, theo chính tả phổ biến với xu hướng mà mọi người dùng hiện nay cho tới khi có quy chuẩn chung nhất áp dụng trong tiếng Việt. 
(Sưu tầm)

Thứ Ba, 31 tháng 3, 2020

Gần 70 trận dịch bệnh ở Việt Nam thế kỷ 19, thi hào Nguyễn Du qua đời vì dịch


TTO - Chỉ riêng trong Đại Nam thực lục thấy chép gần 70 trận dịch 

lớn nhỏ trong thời gian 75 năm 

(từ năm 1820 đến 1895, trung bình hơn 1 năm xảy ra 1 trận).

Sử nước ta, do giới hạn về kiến thức khoa học cộng với quan niệm dịch bệnh 
do trời, nên hạn chế ở phần miêu thuật tình trạng cá nhân người bệnh cũng như
 những diễn biến dịch bệnh trong cộng đồng. Nhưng ở góc độ khác, công tác
 hành chánh khá tiến bộ qua việc thống kê tử vong rất sát sao, việc chẩn cấp ủy lạo
 trong những trận dịch, cho quân dân nghỉ ngơi hoặc miễn thuế sau dịch... có thể cho
 người thời nay phần nào thấy được sự quý trọng sinh mạng dân đen.
Dịch bệnh được ghi nhận trong lịch sử Việt Nam rất sơ lược, suốt trong 
Đại Việt sử ký toàn thư (từ khởi thủy đến năm 1789) chỉ đề cập 9 lần xảy ra 
dịch bệnh, lần đầu thấy chép vào năm 1100 (Lý Nhân Tông, năm Canh Thìn).
Cái chết của một thi hào
Trong số 9 lần ấy, với những ghi nhận tối giản của sử quan, người sau chỉ có thể 
biết được có 5 trận dịch với phạm vi lan rộng toàn quốc (toàn miền Bắc), 4 trận thuộc 
phạm vi địa phương như Lạng Sơn, Quốc Oai, Tam Đái, Sơn Tây, Nghệ An. 
Trận dịch trầm trọng nhất được biết là tại các huyện thuộc Sơn Tây 
hồi tháng 10-1757, dân chết do bệnh dịch và đói lên đến 8, 9 phần.
Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn ghi chép có khá hơn những sách sử trước đó,
 không gian địa lý của thời này cũng tương ứng với nước ta ngày nay, nên
 những ghi nhận này có thể phản ánh bao quát tình hình dịch bệnh toàn quốc 
trong thế kỷ 19. Có thể còn thiếu sót do chưa rà soát kỹ nhiều nguồn sử liệu,
 trước mắt chỉ riêng trong Đại Nam thực lục thấy chép gần 70 trận dịch lớn nhỏ
 trong thời gian 75 năm (từ năm 1820 đến 1895, trung bình hơn 1 năm xảy ra 1 trận).
Tần suất kể trên khá dày nếu so với tình hình dịch bệnh ở Trung Quốc, 
theo thống kê của Trương Đại Khánh (Trung Quốc cận đại tật bệnh xã hội sử
NXB Giáo Dục Sơn Đông, 2006), dịch bệnh thời nhà Thanh (1644-1911)
 ghi nhận trong Thanh sử cảo là 98 trận lớn với cấp độ nguy hại nghiêm trọng 
(trong 267 năm, trung bình hai năm rưỡi 1 trận).
Tuy ghi chép vắn tắt nhưng Đại Nam thực lục đã cho biết cụ thể nhiều số liệu 
quan trọng, đó là những báo cáo tổng kết sau dịch từ các địa phương gửi về, 
hoặc sự tổng hợp báo cáo đối với những trận dịch phạm vi toàn quốc. 
Ba trận đại dịch đáng lưu ý là trận dịch tả năm 1820, trận dịch (chưa rõ tên)
 năm 1849 và trận dịch đậu mùa năm 1888.
Năm 1820 (Minh Mạng năm đầu), tháng 6 dịch khởi phát ở các trấn Hà Tiên, 
Vĩnh Thanh, Định Tường (ứng với khu vực Tây Nam Bộ) rồi lan ra toàn quốc,
 đến tháng 12 mới ngưng, quân và dân đều mắc, số tử vong thống kê được
 là 206.835 người (dân số lúc này khoảng 7 triệu), triều đình phát chẩn đến
 73 vạn quan tiền. Tuy không chép rõ tên dịch bệnh nhưng qua câu
 "Vua lấy bạch đậu khấu trong kho và phương thuốc chữa dịch sai người ban cấp", 
có thể biết đây là trận dịch tả. Thi hào Nguyễn Du chết trong trận dịch này.
Sau Việt Nam, Trung Quốc phải hứng chịu trận dịch này suốt năm 1821, 
phần "Chí", mục "Tai dị" trong Thanh sử cảo ghi nhận dịch phát vào tháng 3 
tại huyện Nhâm Khâu (Hà Bắc), sau đó bùng phát ở khoảng 30 địa phương 
của nhiều tỉnh, tuy không ghi con số thống kê tử vong cụ thể nhưng mô tả 
các nơi đều là đại dịch, người chết vô số, không đếm xuể.
Trên bình diện quốc tế, theo giới nghiên cứu lịch sử bệnh truyền nhiễm
 Trung Quốc thì nguồn cơn trận dịch tả này khởi phát ở Ấn Độ vào năm 1817, 
sau đó theo các thuyền buôn lan về phía đông đến khắp Đông Nam Á 
rồi Trung Quốc, lan về phía tây đến các xứ ven Địa Trung Hải. 
Thực lục chép "dịch phát ở Hà Tiên rồi lan ra toàn quốc", 
và trong khi vua Minh Mạng còn đang lo cầu đảo với tâm trí rối bời 
bảo các quan: "Theo sách vở chép thì bệnh dịch chẳng qua chỉ một châu
 một huyện, chưa có bao giờ theo mặt đất lan khắp như ngày nay",
 thì Phạm Đăng Hưng tâu rằng "thần nghe dịch bệnh từ Tây dương sang". 
Lời tâu của Phạm Đăng Hưng cho thấy triều thần đã có người biết dịch bệnh 
truyền nhiễm từ xa, mà nay thấy khế hợp với vấn đề nguồn gốc lây truyền 
dịch bệnh qua các thuyền buôn đến từ Ấn Độ mà các học giả Trung Quốc nêu ra.
Trận lớn hơn xảy ra vào năm 1849 (Tự Đức năm thứ 2), số người chết gấp 3 lần s
o với trận năm 1820. Tháng 7, kinh sư và nhiều tỉnh phát dịch, hoãn kỳ thi. 
Tháng 12, ghi nhận số người chết ở Vĩnh Long đến 43.400, ở 
Quảng Bình chết 23.300 người (còn ở nhiều tỉnh khác chưa báo cáo). 
Tháng 1-1850, thống kê của Bộ Hộ cho biết số tử vong trong 
năm 1849 là 589.460 người (dân số lúc này khoảng 8 triệu). 
Trận dịch này cực lớn nhưng thông tin rất ít, không nói tên dịch bệnh, 
chỉ nói dịch tràn lan do khí độc (癘氣/lệ khí) phát tán.
Những năm kế tiếp lại thêm nhiều trận rất lớn ở các tỉnh từ Quảng Trị ra Bắc,
 như năm 1851 ở Lạng Sơn dịch bệnh kéo dài từ tháng 4 đến tháng 11, 
tử vong đến 4.480 người; và thống kê trong hai năm 1852-1853 ở một số tỉnh Bắc Kỳ
 cho thấy số tử vong đến 9.074 người.
Những trận dịch phạm vi vùng miền hoặc tỉnh, huyện cấp độ khá lớn có thể 
kể vào các năm 1863, 1875, 1876, 1887, 1888. Từ tháng giêng đến tháng 5-1863,
 dịch bệnh ở Thừa Thiên, Quảng Trị, Định Tường nghiêm trọng: 
Quảng Trị chết 2.600 người, Định Tường chết 1.670 người, tháng 8 năm này 
dân Nam Kỳ lâm nạn đói. Tháng 11-1875, dịch bệnh cùng lúc phát ở nhiều tỉnh 
như Hà Nội, Ninh Bình, Hưng Yên, Bắc Ninh, Hưng Hóa, Hải Dương, Nam Định,
 Thái Nguyên, Sơn Tây, Tuyên Quang, Phú Yên, Bình Thuận, nặng nhất là 
ở Khánh Hòa. 
Địa bàn cấp huyện bị trận dịch nặng nề nhất là Triệu Phong (tỉnh Quảng Trị),
 trong 2 năm 1876-1877 số tử vong lên đến 4.326 người. Năm 1887, ba tỉnh 
Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa dịch phát từ tháng 4 đến tháng 9 mới lắng, 
số liệu riêng tỉnh Thanh Hóa chết đến 9.500 người.
Những ghi chép quý về chủng ngừa
Từ tháng 11-1887 đến tháng 6-1888, trận dịch đậu mùa hoành hành dữ dội 
ở tỉnh Quảng Ngãi, thống kê thấy cả đàn ông và đàn bà chết 13.934 người. 
Triều đình Huế phải phối hợp với thầy thuốc Tây lo việc chủng ngừa đậu mùa 
diện rộng cho người dân. Bệnh đậu mùa trong ghi chép thấy xuất hiện năm 1801 
qua cái chết của Đông cung Cảnh tại Gia Định, năm này không nói có dịch 
trong dân nhưng lại chép rõ tên bệnh làm chết Đông cung.
Tại Trung Quốc, trận dịch đậu mùa khủng khiếp được ghi nhận vào năm 1530
 (Minh Gia Tĩnh thứ 9) trong sách Đậu chứng lý biện, với mô tả dân 
chết hơn nửa phần. Việc chủng đậu theo y thuật Tây phương được thực hiện
 lần đầu năm 1805 tại Áo Môn, cùng lúc với sự kiện xuất bản tài liệu 
Anh Cát Lợi quốc tân xuất chủng đậu kỳ thư (Phép chủng đậu mới lạ ở nước Anh
bằng tiếng Trung do bác sĩ của Công ty Đông Ấn Anh A. Pearson biên soạn. 
Việc này được tiếp tục vào những năm 1815 tại Quảng Châu, năm 1841
 tại Thượng Hải, năm 1861 tại Triệu Khánh (Quảng Đông), năm 1863 
tại Phật Sơn (Quảng Đông), 1864 tại Bắc Kinh, 1882 tại Cửu Giang (Giang Tây), 
1883 tại Nghi Xương (Hồ Bắc), 1886 tại Trấn Giang (Giang Tô), 1890 tại 
Thành Đô (Tứ Xuyên) [theo Bành Trạch Ích, Tây Dương chủng đậu pháp
 sơ truyền Trung Quốc khảo, tạp chí Khoa Học, số 32, 7-1950].
Sử nước ta nói chung và Đại Nam thực lục nói riêng ghi chép dịch bệnh quá 
đỗi sơ lược, thi thoảng mới chép rõ tên dịch bệnh, còn phần lớn chỉ nói chung
 chung là "dịch" hoặc "đại dịch". Trận dịch lớn năm 1820 gián tiếp có thể nhận định
 là dịch tả, trận dịch năm 1888 ở Quảng Ngãi được chép rõ là dịch đậu mùa, 
còn trận cực lớn năm 1849 vẫn chưa rõ tên dịch. Ở Trung Quốc, Trương 
Đại Khánh thống kê trong 50 năm (1840-1910) có 3 loại dịch bệnh xảy ra 
nhiều nhất là: dịch tả (霍乱/hoắc loạn) 45 lần, dịch hạch (鼠疫/thử dịch) 34 lần, 
đậu mùa (天花/thiên hoa) 11 lần.
Sử nước ta, nói riêng trong Đại Nam thực lục, do giới hạn về kiến thức khoa học 
cộng với quan niệm dịch bệnh do trời, nên hạn chế ở phần miêu thuật tình trạng 
cá nhân người bệnh cũng như những diễn biến dịch bệnh trong cộng đồng. 
Nhưng ở góc độ khác, công tác hành chánh khá tiến bộ qua việc thống kê#
 tử vong rất sát sao, việc chẩn cấp ủy lạo trong những trận dịch, cho quân dân
 nghỉ ngơi hoặc miễn thuế sau dịch... có thể cho người thời nay phần nào thấy được 
sự quý trọng sinh mạng dân đen của triều đình, có lẽ là điểm sáng đáng nói trong 
hoạt động xã hội thời nhà Nguyễn.
Tin nhảm về dịch bệnh
Viên Mai chép trong Tùy Viên thi thoại (quyển 2): "Danh y Tô Châu 
Tiết Sanh Bạch nói bừa rằng: Trước thời Tây Hán, không nghe nói trẻ con 
mắc bệnh đậu mùa. Từ lúc Mã Phục Ba (Viện) đi đánh Giao Chỉ, lính tráng 
mang bệnh về, gọi là lỗ sang (虜瘡/bệnh mụn rợ), không phải 
tên bệnh đậu (痘)".
Viên Mai (Tử Tài) nổi tiếng văn đàn thời Thanh, nhưng làm sách lại để 
lọt tin nhảm, hỏng biết Tiết danh y nghe vụ này ở đâu, bởi từ Tây Hán 
về trước không riêng đậu mùa mà nhiều chứng dịch khác cũng đều 
chưa rõ tên, sử chỉ chép chung là dịch tật, dịch bệnh. Mặt khác, 
Truyện Mã Viện trong Hậu Hán thư không thấy nói bệnh lỗ sang,
 mà chỉ nói:
 "Kiến Võ thứ 20, Giáp Thìn (44 sau CN), Mã Viện chinh Giao Chỉ, 
quan quân trải chướng dịch, mười phần chết hết bốn, năm". 
Chướng dịch (瘴疫) hay chướng lệ (瘴癘) là bệnh do nhiễm
 khí độc rừng núi, về sau cũng chỉ sốt rét.
Đừng để cuộc sống quá căng thẳng vì dịch bệnh
TTO - Không còn co cụm, 'tự cách ly' trong những lo lắng quá đáng, những ngày này 
nhiều người đã chọn một tâm thế khác, điều chỉnh lại nếp sống, thói quen sinh hoạt, 
xây dựng nền tảng hệ miễn dịch khỏe mạnh, sức đề kháng tốt để sống vui, khỏe hơn
.PHẠM HOÀNG QUÂN