Những điều trông thấy
(Khoán thủ câu Kiều: Những điều trông thấy mà đau đớn lòng – TG: Nguyễn Du)
Những đắng cùng cay ngó sự đời
Điều day tận mặt lệ trào rơi
Trông người khốn khó tâm tơi tả
Thấy cảnh bất công dạ rối bời
Mà gánh xót xa nhà giặc xéo
Đau gồng nhức nhối nước thù ngồi
Đớn hèn luồn cúi nhồi da thịt
Lòng sử khinh khi nhục để đời.
28-8-2011/Trần Kim Lan
Thứ Năm, 29 tháng 9, 2011
Chương 20: Dụ ngôn thợ làm vườn nho
1 "Nước Trời giống
như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn
nho của mình.2Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai
họ vào vườn nho làm việc.3 Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những
người khác ở không, đang đứng ngoài chợ.4 Ông cũng bảo họ: "Cả các
anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng."5 Họ
liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như
vậy.6 Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng
đó, ông nói với họ: "Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?
"7 Họ đáp: "Vì không ai mướn chúng tôi." Ông bảo họ:
"Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho! "8 Chiều đến, ông chủ vườn
nho bảo người quản lý: "Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những
người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất."9 Vậy những
người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền.10 Khi
đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế
nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền.11 Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn
gia chủ:12 "Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại
coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả
ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt."13 Ông chủ trả lời cho một người
trong bọn họ: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả
thuận với tôi là một quan tiền sao?14 Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn
tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó.15 Chẳng
lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy
tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức? "16 Thế là những kẻ đứng chót sẽ
được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. (Vì kẻ được gọi
thì nhiều, mà người được chọn thì ít.)
Đức Giê-su tiên báo cuộc
Thương Khó lần thứ ba (Mc 10: 32 -34; Lc 18: 31 -34 )
17 Lúc sắp lên
Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đưa Nhóm Mười Hai đi riêng với mình, và dọc đường,
Người nói với các ông:18 "Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem, và Con Người
sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người,19 sẽ nộp
Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và, ngày thứ
ba, Người sẽ trỗi dậy."
Bà mẹ của hai người con ông
Dê-bê-đê (Mc 10: 35 -40 )
20 Bấy giờ bà mẹ của các
con ông Dê-bê-đê đến gặp Đức Giê-su, có các con bà đi theo; bà bái lạy và kêu
xin Người một điều.21 Người hỏi bà: "Bà muốn gì? " Bà thưa:
"Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây, một người ngồi bên hữu, một người
bên tả Thầy trong Nước Thầy."22 Đức Giê-su bảo: "Các người không
biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không? " Họ
đáp: "Thưa uống nổi."23 Đức Giê-su bảo: "Chén của Thầy, các
người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền
cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được."
Ai làm lớn phải phục vụ (Mc
10: 40 -45 )
24 Nghe vậy, mười môn đệ
kia tức tối với hai anh em đó.25 Nhưng Đức Giê-su gọi các ông lại và nói:
"Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người
làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân.26 Giữa anh em thì không được như vậy:
Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em.27 Và ai muốn
làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em.28 Cũng như Con Người đến không
phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm
giá chuộc muôn người."
Đức Giê-su chữa hai người mù
tại Giê-ri-khô (Mc 10: 46 -52; Lc 18: 35 -43 )
29 Khi Đức Giê-su và môn
đệ ra khỏi thành Giê-ri-khô, dân chúng lũ lượt đi theo Người.30 Và kìa có
hai người mù ngồi ở vệ đường, vừa nghe Đức Giê-su đi ngang qua đó, liền kêu lên
rằng: "Lạy Ngài, lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương chúng tôi! "31 Đám
đông quát nạt, bảo họ im đi, nhưng họ càng kêu lớn hơn nữa: "Lạy Ngài, lạy
Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương chúng tôi! "32 Đức Giê-su dừng lại,
gọi họ đến và nói: "Các anh muốn tôi làm gì cho các anh? "33 Họ
thưa: "Lạy Ngài, xin cho mắt chúng tôi được mở ra! "34 Đức
Giê-su chạnh lòng thương, sờ vào mắt họ; tức khắc, họ nhìn thấy được và đi theo
Người.
Mátthêu
TỬ VI CANH DẦN (tham khảo)
CANH DẦN (THUỘC MẠNG MỘC)
1. NAM MẠNG :
Cuộc Đời :
Điểm nổi bật của tuổi Canh Dần
là tình duyên bất hạnh, nhiều đau thương về vấn đề tình ái bắt đầu từ 20 tuổi
trở đi.
Tuổi Canh Dần thuộc mạng Mộc
nhưng tánh lại nóng nảy, cộc cằn làm cho cuộc sống trở nên khó khăn hơn. Cuộc sống
chưa hẳn thành công vào tuổi nhỏ. ít ưa thích xa hoa nhưng lại có nhiều mơ tưởng
về công danh sự nghiệp. Sáng suốt và nhẫn nại lắm mới vượt qua những gian khổ về
thể xác, tâm hồn hay bị dao động, tình cảm có phần không hay đẹp lắm, phải qua
nhiều sóng gió. Như một con thuyền đang ở biển khơi có gió bão. Số rất ngay thẳng,
nhưng thường hay làm cao, hưởng giàu sang ở mức vào giữa cuộc đời, tâm tánh hay
nóng nảy, thiếu bình tĩnh, số của bổn mạng rất tốt ít hay đau bịnh bất ngờ.
Tóm lại: Cuộc đời toàn là
sóng gió và sôi động như mặt biển bị cơn giông to phải bình tĩnh và sáng suốt lắm
mới thoát được những cạm bẫy.
Tình Duyên :
Là tuổi Dần lại thuộc mạng Mộc
do đó chuyện tình duyên có nhiều khe khắt. Phải qua nhiều thay đổi và mang nhiều
vết thương đau, không bao giờ được sống với cuộc đời tràn đầy hạnh phúc mà trái
lại toàn là chuyện đau lòng về vấn đề này. Những vết thương tình ái cứ tiếp tục
gây ra thành những dòng máu thương đau trong kiếp sống, làm cho cuộc đời mang
nhiều mặc cảm về vấn đề tình duyên.
Nếu bạn sanh vào tháng tháng
5, 7 và 11 âm lịch thì lương duyên có nhiều biến động và tối thiểu là ba lần
thay đổi . Nếu bạn sanh vào tháng 1, 3, 6, 8 và 12 âm lịch thì bạn phải hai lần
thay đổi . Nếu bạn sanh vào tháng 2, 9 và 10 âm lịch thì đỡ hơn một chút.
Gia Đạo Và Công Danh :
Công danh của tuổi Canh Dần bắt
đầu phát triển và có nhiều may mắn vào 19 tuổi trở đi, phần công danh có cơ hội
lên đến mức độ trung bình. Sẽ có kết quả tốt đẹp vào những năm 23 và 24 tuổi,
và đến 26 và 27 thì công danh có phần nổi bật lên cao. Nếu sang suốt và nhẫn nại
trong vấn đề này. Gia đạo lại có nhiều buồn phiền, số chắc chắn không được sống
nhờ bà con thân tộc về mọi vấn đề mà phải sống cô đơn hay nhờ ở bè bạn, người
xa lạ nhiều hơn. Ít khi có một cái gì tốt đẹp do bà con, gia tộc dành cho.
Vấn đề gia đạo thật có nhiều
phiền tủi vào những năm từ 20 đến 21 tuổi. Nếu mồ côi cha trước thì công danh
ít sáng tỏ. Nếu mồ côi mẹ trước thì trái lại phần công danh sáng tỏ và lên cao
mau lẹ. Gia đạo luôn ở trong những việc buồn phiền, số không nhờ được gia đạo,
không được gia đình yêu thương .Phải cố gắng và phải có lòng yêu mến gia đạo
thì Trời mới thương mà giúp cho tạo lấy một cuộc sống nhiều may mắn.
Sự Nghiệp, Tiền Tài :
Công danh cũng có lúc trầm bổng,
thông minh nhưng công danh vất vả, tuy nhiên vẫn được đạt thành sở nguyện. Hy vọng
vào năm 18 tuổi, công danh bắt đầu có cơ hội tạo điều kiện tiến bộ và nhờ đó bạn
có thể phát triển thêm.
Nếu bạn có sự nghiệp vững chắc
và bền bỉ thì cũng phải ở vào số tuổi bắt đầu từ 26 trở đi, nhưng chỉ trong mức
độ trung bình chứ không được một sự nghiệp vĩ đại . Tuy nhiên nắm lấy được một
sự nghiêp nho nhỏ và vững chắc hơn bạn mới có thể kéo dài một cuộc sống ở vào
tình trạng trung bình. Tiền tài từ tuổi 19 trở đi đến tuổi 26 thí ít khi phát
triển mạnh mẽ, nhưng bước qua 27 tuổi lại có nhiều cơ hội tốt đẹp tạo nên cho bạn
về vấn đề tiền bạc. Tiền tài tuy không lên cao hay giàu sang phú quí nhưng sự
nghiệp và tiền tài do bạn tạo ra cũng tạm được ở trong một mức sống khá .
Những Tuổi Hợp Cho Sự Làm
Ăn :
Nhâm Thìn, Ất Mùi, Mậu Tuất,
Kỷ Sửu giúp bạn thành công hơn.
Hôn Nhân Với Cuộc Sống Cao
Sang :
Nhâm Thìn, Ất Mùi, Mậu Tuất,
Kỷ Sửu, Nhâm Ngọ, Quý Mão, Bính Ngọ : được nhiều ảnh hưởng tốt đẹp. - Bạn
kết duyên với tuổi Nhâm Thìn giúp bạn tạo được công danh cuộc sống khá đầy đủ ,
hào tài hào con vượng phát. - Bạn kết duyên với tuổi Ất Mùi giúp bạn được giàu
sang phú quý, đầy đủ phước đức, hào tài hào con đều đông đủ. - Bạn kết duyên với
tuổi Mậu Tuất giúp bạn thành công trên mọi khía cạnh tình cảm, tài lộc lẫn sự
nghiệp công danh, rất thuận lợi cho bạn trong việc tạo lấy sự nghiệp. - Bạn kết
duyên với tuổi Kỷ Sửu giúp bạn được giàu sang, con cái đầy đủ gia đình hạnh
phúc. - Bạn kết duyên với tuổi Nhâm Ngọ, Quý Mão, Bính Ngọ, đều có thể trùng hợp
làm cho bạn rạng rỡ công danh cũng như về con đường tài lộc và sự nghiệp.
Hôn Nhân Với Cuộc Sống Trung
Bình :
Nếu bạn kết hôn với những tuổi :
Tân Mão, Đinh Dậu, Bính Tuất thì chỉ hạp với tuổi Canh Dần về tình cảm mà phần
tài lộc chỉ có tính cách tượng trưng.
Hôn Nhân Với Cuộc Sống Bần
Hàn, Làm ăn Khó Khăn :
Nếu gặp những tuổi :
Đinh Dậu, Giáp Ngọ, Kỷ Hợi những tuổi này rất khắc với tuổi Canh Dần về mặt
phát triển tài lộc.
Những Tuổi Đại Kỵ Trong Cuộc
Đời :
Những tuổi đại kỵ với tuổi
Canh Dần, đó là những tuổi: Ất Mùi, Canh Tý, Tân Tỵ, Đinh Mùi, Quý Mùi, Mậu
Thân. Những tuổi này nếu kết duyên thì sanh ra cảnh biệt ly hay tuyệt mạng,
thúc đẩy bạn vào con đường không có ngày mai của cuộc sống.
Những Năm Mà Bạn Không Nên Cưới
Vợ :
18, 22, 24, 30, 34, 36 và 42
tuổi : Nếu bạn cưới vợ hay lựa chọn lương duyên trong những năm này thì
sanh ra nhiều buồn phiền, số phận hẩm hiu xa vắng làm cho bạn có nhiều khổ tâm
về tình duyên hay số phận của bạn.
Sanh Vào Những Tháng Nào Có
Nhiều Vợ ?
Bạn sanh vào tháng 3, 4, 5,
6, 11 và 12 âm lịch thì Không bao giờ thoát được cảnh truân chuyên thay đổi.
Nhận Xét Tuổi Canh Dần Qua Những
Năm Khó Khăn Nhất :
Những năm mà tuổi Canh Dần
mang lấy nhiều khó khăn nhất đó là những năm tuổi Canh Dần ở vào tuổi 16, 22,
26, 28, và 32. Những năm này nếu không xảy ra đau bệnh, thì cũng gặp nhiều trở
ngại trong việc làm ăn, sự phát triển công danh bị ngăn trở hay sự nghiệp cuộc
đời thường bị đe dọa thường xuyên.
Ngày Giờ Xuất Hành Hạp Nhất
Trong Ngày :
Ngày chẵn giờ lẻ và tháng chẵn
sẽ mang lại nhiều kết quả .
Những Diễn Tiến Từng Năm
Trong Suốt Cuộc Đời :
Từ 18 đến 25 tuổi: 18 tuổi gặp
nhiều trở ngại lớn trong vấn đề công danh, thường hay bị sứt mẻ tình cảm và có
những buồn phiền về gia đạo, tuy nhiên năm này bạn không có những trở ngại lớn.
Năm 19 và 20 tuổi mang nhiều đau xót về cuộc đời nhưng công danh có phần tiến bộ.
Việc tình duyên cũng bắt đầu chớm nở trong những năm này. Năm 21 và 22 có thay
đổi quan trọng trong cuộc sống, thành công đôi chút về công danh lẫn tài lộc,
Năm 23 và 24 tình duyên có thể kết hợp trong những năm này, tài lộc có phần hao
hụt và thiếu kém, mức sống trở nên khó khăn hơn và có nhiều buồn phiền. Năm 25
tuổi công danh lên đôi chút, cuộc sống có phần dễ chịu, tình duyên nhiều hay đẹp.
Từ 26 đến 30 tuổi: 26 tuổi có
nhiều thắc mắc hay trở ngại trong sự làm ăn, cần cẩn thận thân thể, năm này
không thể phát triển công danh được. Năm 27 tuổi sao La - Võng chiếu năm này rất
khó làm ăn lắm. Nên cẩn thận xe cộ . Năm 28 tuổi nhiều tốt đẹp cho công danh,
nên cẩn thận trong mọi công việc giao dịch, giao thương, cũng như mọi công việc
khác. Năm 29 đến 30 tuổi hai năm có nhiều triển vọng tốt đẹp hơn hết, chẳng những
phát triển việc làm ăn mà còn tấn phát về đường tài lộc.
Từ 31 đến 35 tuổi: Thời gian
này là thời gian bạn lên hương nhất, phát triển mạnh mẽ về nghề nghiệp, công
danh lẫn tài lộc, có thể hoàn thành sự nghiệp trong những năm này, hoàn toàn
thành công trên mọi khía cạnh nghề nghiệp. Năm 31 và 32 tuổi không nên đi xa
làm ăn. Năm 33 và 34 tuổi việc làm ăn có nhiều phần tiến triển tốt. Năm 35 tuổi
lên cao trong tất cả mọi vấn đề, cố gắng giữ lấy thân mình vào năm 35 tuổi, sự
phát triển nghề nghiệp sẽ có kẻ ganh tỵ, thù hiềm, đề phòng mang tai vạ.
Từ 36 đến 40 tuổi: Suốt thời
gian này bạn làm ăn rất phát đạt, có thể có nhiều triển vọng tốt đẹp về tài lộc
lẫn tình cảm. Nhất là những năm mà tuổi bạn ở vào 37 và 38. Năm 39 và 40 có đau
bịnh, hao tài đôi chút, không đến nỗi phải đỗ vỡ sự nghiệp.
Từ 41 đến 45 tuổi: Thời gian
này là thời gian có nhiều sung sướng nhất, có thể lên cao nữa về vấn đề tài lộc
lẫn tình cảm. Nhưng vào năm 41 và 42 tuổi, trong gia đạo không được yên vui lắm,
sẽ có nhiều chuyện buồn phiền đưa đến. Năm 43 và 44 tuổi không xảy ra việc gì
quan trọng . Ngoài ra tuổi 45 là tuổi nhiều rạo rực về tình cảm và phát đạt mạnh
về tài lộc. Tạo lấy được cơ hội phát triển mạnh mẽ và có thể giàu sang vào những
năm này.
Từ 46 đến 50 tuổi: Năm 46 tuổi
gặp sao Thái Bạch, năm 47 tuổi gặp sao Thổ Tú, hai năm này công việc làm ăn,
tình cảm tài lộc vẫn ở trong mức độ bình thường, nhưng hãy phòng bệnh hoạn vào
những tháng 6, 7 và năm 47 tuổi. Năm 48 và 49 tuổi rất hay đẹp, không có sự gì
quan trọng xảy ra trừ gia đạo có đôi chút rắc rối. Năm 50 tuổi hưởng an nhàn và
bình thản cho đến suốt cuộc đời. Không có việc gì mà bạn không hưởng được cả.
Từ 56 đến 60 tuổi: Thời gian
này chỉ đề phòng bệnh hoạn, vấn đề con cháu có rất nhiều phát triển nghề nghiệp.
Con cái phải chịu nhiều cay đắng rồi mới thành công được và cũng hưởng phần tài
lộc ở vào mức độ trung bình mà thôi.
2. NỮ MẠNG :
Cuộc Đời :
Điểm nổi bật của tuổi Canh Dần
là tình duyên bất hạnh. Tuổi Canh Dần có nhiều cay đắng về cuộc đời, nhứt là về
vấn đề tình duyên. Sự thay đổi hay bi quan về cuộc sống không ngoài việc không
chủ tâm được cuộc sống mà trái lại có nhiều bi quan thành thử ra cuộc đời không
nhiều may mắn lắm. Nhưng nếu có theo đuổi về con đường công danh thì trái lại
có kết quả vẹn toàn. Cuộc đời vào tiền vận nhiều cay đắng đau xót, vào trung vận
thì lao đao cực nhọc vì cuộc sống, vào hậu vận mới an nhàn và sống trong cuộc đời
hoa gấm.
Tóm lại: Tuổi Canh Dần tuổi
nhỏ cô độc, nhiều cay đắng không được yên vui, tâm trí thường lo nghĩ, hay có
tánh bi quan, tiền vận vất vả, trung vận lao đao cực khổ , cho đến hậu vận mới
được an nhàn sung túc.
Tình Duyên :
Về vấn đề tình duyên, tuổi
Canh Dần có nhiều đau xót, sống với chuỗi ngày bi quan và nhiều đau buồn. Trong
cuộc sống đối với vấn đề tình duyên rất đỗi đau buồn, bất hạnh . Nếu bạn sanh
vào tháng tháng 3, 7 và 12 âm lịch thì lương duyên có nhiều biến động và tối
thiểu là ba lần thay đổi . Nếu bạn sanh vào tháng 4, 5, 8 và 11 âm lịch thì bạn
phải hai lần thay đổi . Nếu bạn sanh vào tháng 1, 2, 6, 9 và 10 âm lịch thì đỡ
hơn một chút. Trên đây là những diễn tiến của bạn về vấn đề tình duyên và hạnh
phúc được nghiên cứu tỉ mỉ trong khoa tướng số riêng cho tuổi Canh Dần.
Gia Đạo Và Công Danh :
Phần gia đạo vào trung vận có
nhiều rắc rối và khe khắt, vào hậu vận mới được êm ấm . Phần công danh nếu có
thì lên cao vào khoảng 24 trở đi, tuổi Canh Dần có triển vọng về công danh, rất
nên theo đuổi công danh thì tốt, nếu không theo đuổi công danh thì tuổi Canh Dần
thuận lợi về mua bán, có tài lộc và nhiều hay đẹp.
Sự Nghiệp, Tiền Tài :
Cuộc đời tuy có lao đao,
nhưng sẽ thành công về sự nghiệp vào năm 37 tuổi. Tiền bạc vào trung vận thì
trung bình, vào hậu vận hưởng được nhiều hay đẹp về vấn đề nầy. Bạn đừng buồn
vì con người hễ thiếu cái này thì có cái khác bù đắp, đó là định luật của tạo
hóa. Tuổi Canh Dần nên sống ngay thẳng, cố gắng tạo nhiều phúc đức sẽ thay đổi
được vận số.
Những Tuổi Hợp Cho Sự Làm
Ăn :
Nhâm Thìn, Ất Mùi và Mậu Tuất
giúp bạn thành công hơn.
Hôn Nhân Với Cuộc Sống Cao
Sang :
Nếu kết hôn với các tuổi :
Nhâm Thìn, Ất Mùi, Mậu Tuất, Kỷ Sửu chẳng những hạp về đường lương duyên mà còn
hạp về đường tài lộc. Bạn kết hôn với tuổi Nhâm Thìn, Ất Mùi: Cuộc sống được
khá đầy đủ . Với tuổi Mậu Tuất và Kỷ Sửu: tạo nhiều điều kiện thành đạt về công
danh lẫn sự nghiệp, đẩy mạnh cuộc đời đi đến chỗ giàu sang phú quý. Những tuổi
trên con cái trung bình , chỉ đủ nuôi.
Hôn Nhân Với Cuộc Sống Trung
Bình :
Nếu bạn kết hôn với những tuổi :
Tân Mão, Đinh Dậu chỉ có hạp về đường tình duyên mà không hạp về đường tài lộc.
Hôn Nhân Với Cuộc Sống Bần
Hàn, Làm Ăn Khó Khăn :
Nếu bạn kết hôn với những tuổi :
Giáp Ngọ, Kỷ Hợi, Mậu Tý, Đinh Hợi không hạp với tuổi bạn về đường tình duyên
và cả vấn đề tài lộc.
Những Tuổi Đại Kỵ Trong Cuộc
Đời :
Canh Dần, Quý Tỵ, Bính Thân,
Nhâm Dần, Ất Tỵ, Mậu Thân và Giáp Thân. Tốt hơn muốn cho cuộc đời đừng giẫm lên
nhiều đau xót thì nên tránh những tuổi này.
Những Năm Mà Bạn Không Nên Kết
Hôn :
Có những năm bạn rất xung khắc
tuổi, nếu bạn kết duyên sẽ phải gặp cảnh xa vắng triền miên, đó là những năm mà
bạn ở vào số tuổi: 17, 23, 29, 35, 41, 47 và 53 tuổi. Những năm này định việc
hôn nhân thì sẽ không thành hay nếu thành thì gặp cảnh xa vắng.
Sanh Vào Những Tháng Nào Có
Nhiều Chồng ?
3, 4, 6, 11 và 12 âm lịch :
Bạn sanh vào những tháng này đời bạn có thể sẽ có nhiều chồng hoặc phải chịu
đau khổ vì chồng con, khắc chồng con, đó là số mạng của bạn.
Nhận Xét Tuổi Canh Dần Qua Những
Năm Khó Khăn Nhất :
23, 27 và 34 tuổi : Những
năm này bạn làm ăn khó tạo được tiền bạc, gặp nhiều rối rắm trong cuộc đời; nên
đề phòng những năm này vì sẽ xảy ra nhiều buồn bực, bệnh hoạn hay hao tài tốn của.
Ngày Giờ Xuất Hành Hạp Nhất
Trong Ngày :
Ngày chẵn, tháng lẻ và giờ chẵn
đem lại những thành công tốt hơn .
Những Diễn Tiến Từng Năm
Trong Suốt Cuộc Đời :
Từ 17 đến 20 tuổi: Năm 17 tuổi
không nên tính việc hôn nhân, mặc dù năm này phần tình cảm vượng phát, công
danh ở vào mức độ bình thường, tài lộc yếu kém. Năm 18 tuổi khá tốt, công danh
có phần thắng lợi, tình cảm lên cao, tiền bạc bình thường. Năm 19 tuổi tài lộc
khá, phần công danh tiến triển, tình cảm hay đẹp, làm ăn buôn bán có lợi. Năm
20 tuổi đầy đủ và sung túc trong mọi vấn đề, tình cảm, công danh lẫn tài lộc.
Từ 21 đến 25 tuổi: 21 tuổi
khá tốt, thuận lợi vào những tháng 6, 8 và 12 âm lịch, những tháng khác bình
thường. Năm 22 tuổi xấu, không nên đi xa, làm ăn không thu hoạch nhiều hay đẹp,
công danh có phần yếu ớt về khả năng cũng như về cuộc sống. Năm 23 tuổi đề
phòng về tai nạn cũng như về bệnh hoạn, việc công danh hay làm ăn có nhiều buồn
bực, kỵ đi xa . Năm 24 tuổi công danh, sự nghiệp và cuộc đời có phần lên cao,
tình cảm có nhiều xích mích hay nan giải, tháng 8 trở đi thì vui vẻ. Năm 25 tuổi
cũng khá tốt, phần tài lộc rất tốt. Năm này kết duyên gặp số tốt, bổn mạng vững.
Từ 26 đến 30 tuổi: Năm 26 tuổi
kỵ vào những tháng 3, 6, 9 và 12 . Những năm này cẩn thận kẻo mang tai tiếng,
phần tài lộc và công danh ở vào mức bình thường. Năm 27 và 28 hai năm phần công
danh lên cao, tài lộc điều hòa, tình cảm có vượng phát mạnh, nhất là tháng 6 trở
đi. Năm 29 và 30 tuổi , năm 29 tuổi không được tốt lắm, nhưng tài lộc và tình cảm
được dễ dãi. Năm 30 tuổi khá hay, nên nhịn nhục vào những tháng 6, 7. Phần tình
cảm, gia đình có chuyện buồn bực, ngoài ra những tháng khác trung bình.
Từ 31 đến 35 tuổi: Năm 31 tuổi
tài lộc lên cao, tiền bạc được dồi dào, công danh toại nguyện, tình cảm tốt đẹp.
Năm 32 tuổi, không được may mắn về vấn đề làm ăn và sự phát triển nghề nghiệp,
kỵ vào tháng 7. Năm 33 tuổi có đau bệnh, năm này không nên xuất ngoại, hay đi
xa có hại. Năm 34 tuổi được tốt, sự phát triển nghề nghiệp được tốt, tài lộc dồi
dào, tiền bạc dư dả. Năm 35 tuổi mọi việc làm ăn đều ở vào mức độ trung bình mà
thôi.
Từ 36 đến 40 tuổi: 36 tuổi
khá tốt đẹp về tình cảm và tài lộc, những tháng đầu năm có lợi, cuối năm có nhiều
hao hụt. Năm 37 tuổi, không được khá lắm, nên cẩn thận về tiền bạc cũng như về
việc làm và công danh, gia đạo. Năm 38 tuổi không nên phát triển sự nghiệp và
cũng không nên giao dịch về tiền bạc, sẽ bị thất bại nhất là tháng 8 và 11. Năm
39 và 40 tuổi, hai năm tình cảm vượng tốt, về tài lộc có phần yếu kém, vào
tháng 8 và 10 có hao tài.
Từ 41 đến 45 tuổi: 41 tuổi
bình thường, toàn năm không có gì xảy ra quan trọng cho cuộc sống. Gia đình êm ấm,
tài lộc, tình cảm điều hòa. Năm 42 tuổi nên đi xa, xuất ngoại, hay phát triển về
việc làm ăn thì tốt. Năm 43 tuổi không được nhiều may mắn trong cuộc đời, có thể
gặp nhiều trở ngại trong nghề nghiệp, làm ăn. Năm 44 tuổi năm mà mọi việc có thể
thâu gọn được, không nên xuất phát tiền bạc cho người không được tin cậy, sẽ bị
mất của. Năm 45 tuổi tốt vào những tháng đầu năm, những tháng cuối năm xấu, giữa
năm trung bình.
Từ 46 đến 50 tuổi: 46 tuổi
phát triển mạnh mẽ về đường tài lộc lẫn tình cảm, thâu nhiều thắng lợi tốt đẹp.
Năm 47 và 48 tuổi có phần tốt đẹp về vấn đề tiền bạc, tình cảm bị sứt mẻ, công
việc làm ăn có nhiều trở ngại, năm 47 kỵ tháng 6, năm 48 kỵ tháng 10, hai tháng
này khó thoát được bệnh hoạn hay hao tài. Năm 49 tuổi tài lộc và sự nghiệp vững
chắc, toàn năm đều tốt. Năm 50 tuổi trung bình, việc làm ăn tiến triển bình thường,
gia đạo tình cảm êm dịu.
Từ 51 đến 55 tuổi: 51 tuổi
nên cẩn thận về tài lộc, không được tốt về bổn mạng, vấn đề tài lộc có nhiều
hao tốn. Năm 52 và 53 trung bình. Bổn mạng có phần vững chắc, tiền bạc và công
danh ở vào mức độ tầm thường. Năm 54 và 55 tuổi hai năm này đặc biệt cẩn thận.
Từ 56 đến 60 tuổi: Khoảng thời
gian này có nhiều may mắn về đường tình cảm, về vấn đề tài lộc ở vào mức độ
trung bình, phần con cái có nhiều phát triển về nghề nghiệp cũng như về cuộc đời.
Con cái có hưởng nhiều phước lộc. Phần cá nhân nhiều sung túc.
(Sưu tầm)
(Sưu tầm)
Thứ Tư, 28 tháng 9, 2011
Chương 19: VI. NƯỚC TRỜI: TRIỀU ĐẠI THIÊN CHÚA ĐÃ ĐẾN GẦN
1. PHẦN KÝ THUẬT
Câu hỏi về việc ly dị (Mc 10:
1-12 )
1 Khi Đức Giê-su giảng dạy
những điều ấy xong, Người rời khỏi miền Ga-li-lê và đi đến miền Giu-đê, bên kia
sông Gio-đan.2 Dân chúng lũ lượt đi theo Người, và Người đã chữa họ ở đó.3 Có
mấy người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giê-su để thử Người. Họ nói: "Thưa Thầy,
có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không? "4 Người đáp:
"Các ông không đọc thấy điều này sao: "Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã
làm ra con người có nam có nữ",5 và Người đã phán: "Vì thế, người
ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt."6 Như
vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên
Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly."7 Họ thưa với Người:
"Thế sao ông Mô-sê lại truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ? "8 Người
bảo họ: "Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê đã cho phép các ông rẫy
vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu.9 Tôi nói cho các ông biết: Ngoại
trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại
tình."
Tự nguyện sống khiết tịnh
10 Các môn đệ thưa Người:
"Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ còn
hơn."11 Nhưng Người nói với các ông: "Không phải ai cũng hiểu được
câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu.12Quả vậy, có
những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những
người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những người tự ý không kết
hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu."
Đức Giê-su và trẻ em (Mc 10:
13 -16; Lc 18: 15 -17 )
13 Bấy giờ người ta dẫn
trẻ em đến với Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng và cầu nguyện. Các môn đệ
la rầy chúng.14 Nhưng Đức Giê-su nói: "Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng
ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai giống như chúng."15 Người
đặt tay trên chúng, rồi đi khỏi nơi đó.
Người thanh niên có nhiều của
cải (Mc 10,17 -22; Lc 18: 18 -23 )
16 Bấy giờ có một người
đến thưa Đức Giê-su rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng
sự sống đời đời? "17 Đức Giê-su đáp: "Sao anh hỏi tôi về điều tốt?
Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi. Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều
răn."18 Người ấy hỏi: "Điều răn nào? " Đức Giê-su đáp:
"Ngươi không được giết người. Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không được
trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian.19 Ngươi phải thờ cha kính mẹ",
và "Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình."20 Người thanh
niên ấy nói: "Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ, tôi còn thiếu điều gì
nữa không? "21 Đức Giê-su đáp: "Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì
hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng
trên trời. Rồi hãy đến theo tôi."22 Nghe lời đó, người thanh niên buồn
rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.
Người giàu có khó vào Nước Trời
(Mc 10: 23 -27; Lc 18: 24 -27 )
23 Bấy giờ Đức Giê-su
nói với các môn đệ của Người: "Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào
Nước Trời.24Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn
người giàu vào Nước Thiên Chúa."25 Nghe nói vậy, các môn đệ vô cùng sửng
sốt và nói: "Thế thì ai có thể được cứu? "26 Đức Giê-su nhìn thẳng
vào các ông và nói: "Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng
đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được."
Phần thưởng dành cho ai bỏ mọi
sự mà theo Đức Giê-su (Mc 10: 28 -31; Lc 18: 28 -30 )
27 Bấy giờ ông Phê-rô
lên tiếng thưa Người: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà
theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì? "28 Đức Giê-su đáp: "Thầy bảo
thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con
Người ngự toà vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai toà mà xét xử mười
hai chi tộc Ít-ra-en.29 Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con
cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu
làm gia nghiệp.
30 "Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu."
30 "Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu."
Mátthêu
BÀI 12: MẪU NGƯỜI “NHẬT NGUYỆT ĐỒNG LÂM”
Mặt trời là nguồn năng lượng
lớn nhất đối với qủa đất của chúng ta cho nên người có Nhật thủ Mệnh là người rất
năng động, có phần nóng nảy. Từ cổ chí kim mặt trăng luôn là nguồn cảm hứng bất
tận cho các thi nhân cho nên người có Nguyệt thủ Mệnh thường mang tính đa sầu,
đa cảm. Nhật thuộc nam đẩu tinh, hành Hỏa, miếu địa ở Tỵ, Ngọ tức là mặt trời
vào lúc giữa trưa, và vượng địa ở Dần, Mão, tức là mặt trời lúc bình minh. Ở 4
vị trí trên, Nhật chủ về sự thông minh, lòng nhân đức, Tài và uy quyền. Nhật rất
hợp với người Dương Nam, Dương Nữ, và những người sinh vào ban ngày. Nguyệt thuộc
bắc đẩu tinh, hành Thủy, miếu địa ở Dậu, Tuất, Hợi, là lúc mặt trăng tỏa sáng nửa
đêm, vượng địa ở hai cung Thân (lúc trăng mới mọc), và Tí (lúc trăng sắp tàn). Ở
những vị trí miếu vượng, Nguyệt là sự nhân từ, tánh đa sầu, đa cảm và lãng mạn,
có khiếu về văn chương, nghệ thuật. Đồng thời Nguyệt cũng chủ sự giàu có về điền
sản như nhà cửa, đất đai... Nguyệt đặc biệt phò trì cho người Âm Nam, Âm Nữ, những
người mạng Mộc, Thủy, và người sinh vào ban đêm, nhất là sinh vào những đêm
trăng tròn 15, 16 thì càng tuyệt hảo.
Trong cơ thể, Nhật Nguyệt
tượng trưng cho đôi mắt. Trong gia đình, Nhật là ông, là cha, là chồng, Nguyệt
là bà, là Mẹ, là vợ...Điều này rất rõ khi cung hạn có Nhật hay Nguyệt tọa thủ
thì những gì xảy ra trong hạn đó không những là cho chính bản thân của mình mà
còn nói lên những sự việc xảy ra cho chồng, cho vợ, cha mẹ, ông bà của đương số
nữa. Sự biểu tượng này cũng nói lên tình cảm hay sự gần gũi mật thiết trong cuộc
sống giữa người con đối với cha hay mẹ. Chẳng hạn một người có Nhật thủ Mệnh
thì người này chịu ảnh hưởng tánh tình của cha nhiều hơn, có thể sẽ nối nghiệp
cha, hoặc có thể vì hoàn cảnh, đương số sẽ sống gần gũi và hợp với cha nhiều
hơn là với mẹ. Khi nói đến hai sao Nhật Nguyệt, khoa Tử Vi có một nguyên tắc mà
chúng ta thường nghe là: "Chính bất như chiếu" nghĩa là: Nhật Nguyệt
chiếu Mệnh tốt hơn thủ Mệnh. Điều này nghĩ cũng hợp lý, rất thực tế. Chẳng hạn
như chúng ta đặt một ngọn đèn ngay trước mặt mà đọc sách thì ánh sáng chiếu trực
tiếp vào mắt sẽ làm cho mắt bị chói và mau mỏi mệt hơn là để ngọn đèn chiếu lên
chụp đèn, hay chiếu vào tường rồi phản chiếu vào trang sách. Nhật Nguyệt chỉ đồng
cung ở hai vị trí Sửu, Mùi gọi là Nhật Nguyệt Đồng Lâm. Nhật Nguyệt Đồng Lâm
cũng giống như hiện tượng Nhật Thực, Nguyệt Thực. Nghĩa là trong một khoảng thời
gian nào đó, mặt trời, mặt trăng, và trái đất cùng ở một đường thẳng. Như chúng
ta đã thấy, khi Nhật Thực hay Nguyệt Thực thì mặt trăng che mặt trời hoặc mặt
trời che mặt trăng, cho nên ánh sáng mờ mờ ảo ảo, ngày chẳng ra ngày, đêm cũng
không giống đêm. Đó chính là nét đặc thù đầu tiên của mẫu người Nhật Nguyệt Đồng
Lâm. "Những người bất hiển công danh Cũng bởi Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu
Mùi."
Ngoại trừ Nhật Nguyệt Đồng Lâm thủ Mệnh, mặc dù không phải là những vị trí miếu vượng của Nhật-Nguyệt nhưng cũng là người khá thông minh vì đó là bản chất thuần túy của vầng Nhật-Nguyệt. Tuy nhiên vì hai nguồn ánh sáng nằm cùng với nhau cho nên Nhật-Nguyệt tự che lấy ánh sáng của nhau như đã nói ở trên. Vì vậy người Nhật Nguyệt Đồng Lâm có trí nhớ kém và thường hay có những quyết định lầm lẫn, mãi cho đến khi việc đã xong, quay mình nhìn lại thì mới thấy ân hận tại sao lúc đó mình làm như vậy. Nhật-Nguyệt là biểu tượng của ngày và đêm, và cũng là biểu tượng của Âm và Dương trong vũ trụ cho nên người có Nhật Nguyệt thủ hay chiếu Mệnh thường có năng khiếu về ngành điện tử, điện toán, vi tính v.v... Nhật Nguyệt Đồng Lâm thần kinh dễ bị suy yếu, hay bị những chứng nhức đầu kinh niên, căng thẳng thần kinh, dễ bị xúc động, và chắc chắn một điều là hai mắt kém, có nhiều bệnh tật khi còn bé. Riêng đối với phái nữ, người Nhật Nguyệt Đồng Lâm mỗi lần có kinh nguyệt thường bị đau bụng dữ dội hơn những người khác. Và họ thường hay bị những chứng bệnh mà đông y gọi là bệnh khí huyết.
Nếu nói như vậy, Nhật Nguyệt Đồng Lâm thủ Mệnh đây không phải là một cách tốt, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt như sau:
1) Nhật Nguyệt Đồng Lâm thủ Mệnh mà có Tuần án ngữ, và được các văn tinh như Xương Khúc, Khôi Việt, Quang Quí, Thai Tọa, Đào Hồng Hỷ hội hợp thì trở nên tốt. Đây là số của những nhà văn, nhà thơ, nhà báo, những người làm ngành truyền thông, hay là giới văn nghệ sĩ danh tiếng và có địa vị trong giới văn chương, nghệ thuật.
2) Nhật Nguyệt Đồng Lâm thủ Mệnh có Hóa Khoa, Hóa Lộc đồng cung hay xung chiếu, hay hợp chiếu thì lại trở nên tốt đẹp. Công danh sự nghiệp vững vàng, có quyền cao chức trọng trong xã hội.
Tóm lại, ngoài hai trường hợp vừa nêu trên, Nhật Nguyệt Đồng Lâm ở Sửu/Mùi thì cuộc đời cũng được cơm no áo ấm nhưng đây là mẫu người bất đắc chí, có khả năng mà không gặp được thời vận điển hình như nhà thơ Tú Xương ngày trước.
Cũng là Nhật-Nguyệt đồng cung, nhưng đúng với nguyên tắc căn bản mà chúng ta đề cập ở trên "Nhật Nguyệt chiếu Mệnh tốt hơn thủ Mệnh" Như vậy nếu Mệnh an ở Sửu được Nhật-Nguyệt đồng cung ở Mùi xung chiếu thì chắc chắn tốt hơn Nhật-Nguyệt tọa thủ tại Mệnh. Và phú Tử Vi cũng khẳng định điều này: "Nhật Nguyệt đồng Mùi, Mệnh an Sửu, hầu bá chi tài." Trong trường hợp này nếu Mệnh có Tuần án ngữ để giữ ánh sáng của Nhật-Nguyệt, và có Hóa Kỵ thủ Mệnh như vầng mây ngũ sắc làm tăng thêm độ sáng cho Nhật-Nguyệt. Được cách này, công danh phú quý càng rực rỡ và bền vững hơn.
Như vậy, khi nói đến mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm, chúng ta phải phân biệt 2 trường hợp. Nếu Nhật-Nguyệt đồng thủ Mệnh thì cuộc đời được mô tả khái quát như câu: "Những người bất hiển công danh, cũng vì Nhật-Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi" Nếu Nhật-Nguyệt đồng cung xung chiếu Mệnh thì công danh sự nghiệp chắc chắn sẽ trong tầm tay. Nhưng cho dù ở trường hợp nào thì mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm giống nhau ở chổ mắt yếu, nhức đầu kinh niên, thần kinh dễ rối loạn, trí nhớ kém, phái nữ thường bị đau bụng dữ dội khi hành kinh. Năng khiếu nổi bật nhất của họ là văn chương và nghệ thuật.
(Sưu tầm)
Ngoại trừ Nhật Nguyệt Đồng Lâm thủ Mệnh, mặc dù không phải là những vị trí miếu vượng của Nhật-Nguyệt nhưng cũng là người khá thông minh vì đó là bản chất thuần túy của vầng Nhật-Nguyệt. Tuy nhiên vì hai nguồn ánh sáng nằm cùng với nhau cho nên Nhật-Nguyệt tự che lấy ánh sáng của nhau như đã nói ở trên. Vì vậy người Nhật Nguyệt Đồng Lâm có trí nhớ kém và thường hay có những quyết định lầm lẫn, mãi cho đến khi việc đã xong, quay mình nhìn lại thì mới thấy ân hận tại sao lúc đó mình làm như vậy. Nhật-Nguyệt là biểu tượng của ngày và đêm, và cũng là biểu tượng của Âm và Dương trong vũ trụ cho nên người có Nhật Nguyệt thủ hay chiếu Mệnh thường có năng khiếu về ngành điện tử, điện toán, vi tính v.v... Nhật Nguyệt Đồng Lâm thần kinh dễ bị suy yếu, hay bị những chứng nhức đầu kinh niên, căng thẳng thần kinh, dễ bị xúc động, và chắc chắn một điều là hai mắt kém, có nhiều bệnh tật khi còn bé. Riêng đối với phái nữ, người Nhật Nguyệt Đồng Lâm mỗi lần có kinh nguyệt thường bị đau bụng dữ dội hơn những người khác. Và họ thường hay bị những chứng bệnh mà đông y gọi là bệnh khí huyết.
Nếu nói như vậy, Nhật Nguyệt Đồng Lâm thủ Mệnh đây không phải là một cách tốt, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt như sau:
1) Nhật Nguyệt Đồng Lâm thủ Mệnh mà có Tuần án ngữ, và được các văn tinh như Xương Khúc, Khôi Việt, Quang Quí, Thai Tọa, Đào Hồng Hỷ hội hợp thì trở nên tốt. Đây là số của những nhà văn, nhà thơ, nhà báo, những người làm ngành truyền thông, hay là giới văn nghệ sĩ danh tiếng và có địa vị trong giới văn chương, nghệ thuật.
2) Nhật Nguyệt Đồng Lâm thủ Mệnh có Hóa Khoa, Hóa Lộc đồng cung hay xung chiếu, hay hợp chiếu thì lại trở nên tốt đẹp. Công danh sự nghiệp vững vàng, có quyền cao chức trọng trong xã hội.
Tóm lại, ngoài hai trường hợp vừa nêu trên, Nhật Nguyệt Đồng Lâm ở Sửu/Mùi thì cuộc đời cũng được cơm no áo ấm nhưng đây là mẫu người bất đắc chí, có khả năng mà không gặp được thời vận điển hình như nhà thơ Tú Xương ngày trước.
Cũng là Nhật-Nguyệt đồng cung, nhưng đúng với nguyên tắc căn bản mà chúng ta đề cập ở trên "Nhật Nguyệt chiếu Mệnh tốt hơn thủ Mệnh" Như vậy nếu Mệnh an ở Sửu được Nhật-Nguyệt đồng cung ở Mùi xung chiếu thì chắc chắn tốt hơn Nhật-Nguyệt tọa thủ tại Mệnh. Và phú Tử Vi cũng khẳng định điều này: "Nhật Nguyệt đồng Mùi, Mệnh an Sửu, hầu bá chi tài." Trong trường hợp này nếu Mệnh có Tuần án ngữ để giữ ánh sáng của Nhật-Nguyệt, và có Hóa Kỵ thủ Mệnh như vầng mây ngũ sắc làm tăng thêm độ sáng cho Nhật-Nguyệt. Được cách này, công danh phú quý càng rực rỡ và bền vững hơn.
Như vậy, khi nói đến mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm, chúng ta phải phân biệt 2 trường hợp. Nếu Nhật-Nguyệt đồng thủ Mệnh thì cuộc đời được mô tả khái quát như câu: "Những người bất hiển công danh, cũng vì Nhật-Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi" Nếu Nhật-Nguyệt đồng cung xung chiếu Mệnh thì công danh sự nghiệp chắc chắn sẽ trong tầm tay. Nhưng cho dù ở trường hợp nào thì mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm giống nhau ở chổ mắt yếu, nhức đầu kinh niên, thần kinh dễ rối loạn, trí nhớ kém, phái nữ thường bị đau bụng dữ dội khi hành kinh. Năng khiếu nổi bật nhất của họ là văn chương và nghệ thuật.
(Sưu tầm)
Chủ Nhật, 25 tháng 9, 2011
Thắp sáng tình quê
Thắp sáng tình quê
Vui sao Ngài lại viếng thăm quê
Mừng khắp nơi nơi rộn rã hè
Chào nắng xôn xao ngày hợp ngộ
Đón cha náo nức buổi quay về
Đức tin bừng tỏa muôn tâm trẻ
Giáo hội xua tan những bộn bề
Hoàng ánh hào quang ngời nước Chúa
Bennedict Mười Sáu thắp
sáng tình quê.
22.9.2011/Trần Kim Lan
Chương 18: 2. Bài giảng về giáo hội
Ai là người lớn nhất trong Nước
Trời? (Mc 9:33 -37; Lc 9:46 -48 )
1 Lúc ấy, các môn đệ lại gần
hỏi Đức Giê-su rằng: "Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời?
"2 Đức Giê-su liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông3 và bảo:
"Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ
chẳng được vào Nước Trời.
4 "Vậy ai tự hạ, coi
mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.
Đừng làm cớ cho người ta sa
ngã (Mc 9:42 -48; Lc 17: 1-2)
5 "Còn ai tiếp đón một
em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy.6 Nhưng ai làm cớ cho một
trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà treo cối đá lớn
vào cổ nó mà xô cho chìm xuống đáy biển còn hơn.7 Khốn cho thế gian, vì làm cớ
cho người ta sa ngã. Tất nhiên phải có những cớ gây sa ngã, nhưng khốn cho kẻ
làm cớ cho người ta sa ngã.
8 "Nếu tay hoặc chân anh
làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà được vào
cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời.9 Nếu mắt
anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi
sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục.
10 "Anh em hãy coi chừng,
chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết:
các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng
ngự trên trời.11 Vì Con Người đến để cứu cái gì đã hư mất).
Con chiên lạc (Lc 15: 4-7)
12 "Anh em nghĩ sao? Ai
có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia
trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao?13 Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật
anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị
lạc.14 Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai
trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.
Sửa lỗi anh em
15 "Nếu người anh em của
anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu
nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em.16 Còn nếu nó không
chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải
quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân.17 Nếu nó không nghe họ, thì hãy
đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một
người ngoại hay một người thu thuế.
18 "Thầy bảo thật anh
em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy;
dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy.
Hiệp lời cầu nguyện
19 "Thầy còn bảo thật
anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì,
thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho.20 Vì ở đâu có hai ba người họp lại
nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ."
Anh em tha thứ cho nhau (Lc 17: 3b-4)
21 Bấy giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: "Thưa Thầy,
nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần
không? "22 Đức Giê-su đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến
bảy mươi lần bảy."
Dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót
23 Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các
đầy tớ của mình thanh toán sổ sách.24 Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn
đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng.25 Y không có gì để trả, nên tôn chủ
ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ.26 Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp
mình xuống bái lạy: "Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo
trả hết."27 Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và
tha luôn món nợ.28 Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn,
mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: "Trả nợ cho
tao! "29 Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: "Thưa anh,
xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh."30 Nhưng y không chịu,
cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ.31 Thấy sự việc xảy ra như vậy,
các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện.32
Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo: "Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết
số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta,33 thì đến lượt ngươi, ngươi không
phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao? "34 Rồi
tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ
cho ông.35 Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế,
nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình."
Mátthêu
Bài 11: Mẫu người “Tỳ hà ngọc (cự kỵ)”
CUỘC ĐỜI VÀ SỐ MỆNH
Có những điểm giống nhau và
khác nhau của hai mẫu người Cự Kỵ và mẫu người Thai Phục Vượng Tướng.
Cự Môn thuộc nhóm Bắc Đẩu
tinh, hành Thủy, miếu địa ở Mão, Dậu, vượng địa ở Tí, Ngọ và Dần. Cự Môn là cái
miệng, con người sống cũng nhờ cái miệng, chết cũng vì cái miệng, được người
thương cũng do cái miệng, bị người ghét cũng bởi cái miệng của mình mà thôi...
nếu Cự Môn tọa thủ tại những vị trí miếu, vượng thì Cự Môn còn là biểu tượng của
sự giàu sang, thông minh, cơ trí, có khiếu ăn nói, có tài hùng biện, thích hợp
với các ngành ngoại giao, giao thiệp, dạy học, luật sư... Chẳng hạn nếu thấy lá
số của con cái mình có cách Cự Hổ Tuế Phù, là gồm các sao Cự Môn, Bạch Hổ, Tuế
Phá và Thiên Phù hội họp với nhau thì nên khuyến khích cho con cái đi vào ngành
luật, vì tương lai chắc chắn sẽ trở thành những luật sư tài giỏi. Nhưng ngược lại,
nếu Cự Môn rơi vào những nơi hãm địa thì đã không tài giỏi lại thiếu suy nghĩ,
cứ mở miệng ra là bị người ta ghét và suốt đời chỉ gặp toàn là những chuyện thị
phi khẩu thiệt .
Ý nghĩa thứ hai, Cự Môn là viên ngọc. Chẳng hạn,
Cự Môn ở Tí Ngọ là cách Thạch Trung Ẩn Ngọc, có nghĩa là ngọc còn ẩn trong đá,
Cự Môn gặp Nhật là cách Cự Nhật, là ngọc lấp lánh dưới ánh mặt trời, và Cự Môn
gặp Hóa Kỵ là cách Cự Kỵ mà chúng ta đang bàn đến, còn gọi là Tì Hà Ngọc, có
nghĩa là ngọc bị tì vết.
Sao thứ hai của cách này là
Hóa Kỵ, một ám tinh với nhiều tính xấu như độc hiểm, ích kỷ, ghen tuông, tai tiếng,
thị phi, kiện cáo, tai họa, bệnh tật, nông nổi và hay lầm lẫn... Với bản chất
như vậy, cho nên Hóa Kỵ đã làm cho viên ngọc Cự Môn thành tì vết, nhưng Hóa Kỵ
cũng có một điểm tốt là giữ được của.
Cách Cự Kỵ đối với nam mệnh,
ngoài những nét tổng quát là cuộc đời nhiều thất bại, lại thường hay bị nhiều
điều thị phi khẩu thiệt, tai nạn về xe cộ hay sông biển, mà cách này chỉ đáng
lưu ý hơn đối với nữ mệnh. Khi gọi cách Tì Hà Ngọc thì chữ ngọc hàm ý chỉ vào
phái nữ, hay nói rõ hơn là vấn đề trinh tiết, phẩm hạnh của một người đàn bà,
cho nên mẫu người Cự Kỵ mà chúng ta nói đến là bàn nhiều đến nữ có cách Cự Kỵ.
Với nữ mệnh có Cự Môn tọa thủ
và có Hóa Kỵ đồng cung, xung chiếu hay hợp chiếu thì ít nhiều cũng có điểm bất
lợi. Ở đây Cự Kỵ, Tham Kỵ, Đào Kỵ hay Thai Phục Vượng Tướng mà chúng ta sẽ đề cập
tiếp theo, thì sự cân nhắc nặng nhẹ phải hết sức thận trọng, vì vấn đề sẽ liên
quan đến danh tiết và phẩm hạnh của một người đàn bà. Do đó, chúng ta nên phân
biệt:
1) Nữ có Cự Môn miếu vượng tọa
thủ và gặp Hóa Kỵ, chúng ta phải xem ở cung Mệnh và Thân, Phúc, Phu, Quan,
Nô... để xem nếu có những sao xác định nết đoan chính như Nhật, Tứ Đức... hoặc
những sao khắc chế tính lẳng lơ như Hóa Khoa, Thiên Hình... thì Cự Kỵ ở đây nhẹ
là những người thường hay gặp các hoàn cảnh khiến cho mình bị những tai tiếng
thị phi hoặc dễ bị người khác hiểu lầm, đánh giá sai lầm phẩm hạnh của mình mà
có những lời nói, cử chỉ xúc phạm, sách nhiễu tình dục (sexual harassement). Mức
độ nặng hơn, nếu gặp những sao như Thiên Hình, Kiếp Sát... thì có thể vì bệnh tật
mà phải mổ xẻ, như cắt bỏ buồng trứng, tử cung v.v... Hoặc có thể là những tai
nạn về xe cộ và đáng kể nhất là những tai họa về sông biển như một số người đã
gặp trên đường vượt biển trong những năm về trước. Như vậy, trong trường hợp
này, viên ngọc của cách Tì Hà Ngọc vốn là một viên ngọc sáng, nhưng vì hoàn cảnh
mà rơi xuống bùn nên vấy bùn, hoặc bị lăn xuống đường nên có tì vết, đó là
ngoài ý muốn, là tai nạn của đương số mà thôi.
2) Cự Môn tuy là miếu, vượng
mà gặp Hóa Kỵ, lại còn được sự hỗ trợ của các sao có tính lãng mạn, như Xương,
Khúc, Hồng Loan hoặc lẳng lơ, ham chuộng vật chất, nặng phần tình dục như Tham,
Đào Hoa, Thiên Riêu v.v... thì những gì không tốt xảy ra cho đương số là do bản
tính chứ không phải là những rủi ro, tai nạn, và hoàn cảnh chỉ là những trợ lực
thúc đẩy thêm mà thôi. Chẳng hạn, nữ mệnh có cách Cự Kỵ lại gặp thêm Đào Hồng
thì làm sao mà giữ được trinh tiết cho đến ngày lên xe hoa, và khi đã có gia
đình thì một đời cũng đau khổ vì tình hoặc phải lo buồn vì chồng con, dù cho họ
có một cuộc sống vật chất đầy đủ, dù cho họ cũng có địa vị trong xã hội, là những
mệnh phụ phu nhân... Trường hợp này có thể ví như Thúy Kiều, ở cái thời xa xưa
đó, với xã hội phong kiến đó, mà nửa đêm thân gái một mình vào nhà Kim Trọng
đánh đàn, thì làm sao trách được sự đánh giá nghiêm khắc của người sau: Đoạn
trường cho đáng kiếp tà dâm. Và như vậy, viên ngọc của cách Tì Hà Ngọc trong
trường hợp này là một viên ngọc vốn đã có vết, có bọt ngay từ trong lòng đất,
chứ không phải do tay người dũa ngọc hay người chủ của viên ngọc.
3) Trường hợp nữ mệnh có Cự
Môn hãm địa tọa thủ mà không được Tuần, Triệt án ngữ hay được các sao
"đoan chính" hóa giải phần nào thì đây là một mẫu người, có một bề
ngoài mà ai mới gặp cũng thấy yêu thích, nhưng khi tiếp cận lâu dài thì mới thấy
rõ con người thật được che đậy vốn là một người đàn bà chua ngoa, ghen tương, đố
kỵ đủ điều... Và nếu đi kèm với một ám tinh Hóa Kỵ nữa thì ba chữ Tì Hà Ngọc thật
là đúng nghĩa!
4) Cách Cự Kỵ dù tọa thủ tại
cung Mệnh hay các cung Phúc, Quan, Tài hay Phu cũng còn nói lên sự bất ổn trong
cuộc sống tình cảm của đương số. Lá số có cách Cự Kỵ một đời khó lòng chỉ có một
mối tình hay chỉ một cuộc hôn nhân, chuyện gãy đổ, chắp nối hay sống với nhau
theo kiểu già nhân ngãi, non vợ chồng là chuyện bình thường của mẫu người này,
nếu không được những sao hóa giải. Các trở ngại hay đổ vỡ trong tình cảm thường
là do sự khắc khẩu, ảnh hưởng của Cự Môn, và tính ghen tuông cũng như lòng ích
kỷ quá nặng, ảnh hưởng của Hóa Kỵ.
Tóm lại, cách Cự Kỵ không tốt
cho cả nam và nữ nhưng nữ mệnh thì nặng nề và tai hại hơn trong lãnh vực trinh
tiết và phẩm hạnh, cuộc đời chắc chắn là một kiếp phong trần, chỉ khác nhau ở mức
độ nặng nhẹ mà thôi. Nhưng ở đây, chúng ta đừng quên một trường hợp đặc biệt,
cách Cự Kỵ lại rất tốt cho những người tuổi Quý và tuổi Thân, khoa Tử Vi Đẩu Số
gọi là phản vi kỳ cách, có nghĩa là từ xấu trở thành tốt vì có sự ứng hợp.
(Sưu tầm)
Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2011
Lệ chảy ngược dòng
Lệ chảy ngược dòng
(Cảm xúc khi đọc bài thơ : Nhân xem bức chân dung tướng Giáp do Hà Vũ vẽ trong tù - TG: Nguyễn Trọng Tạo)
Nước sông tuôn chảy mãi về
nguồn
Mắt lệ ngược dòng thổn thức vương
Rưng rức sầu đau thân ngục vướng
Rưng tràn khốn khó mệnh tù nương
Giàn giăng công lý cong queo
khổ
Giụa giãy nhân tình lắt léo buồn
Bức xúc sự đời cha hiện thế
Tranh mừng tướng Giáp ẩn oan
thương.
24.9.2011/Trần Kim Lan
Chương 17: Đức Giê-su hiển dung (Mc 9:2-8; Lc 9:28 -36 )
1 Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em
ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn
núi cao.2 Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói
lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.3 Và bỗng các
ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người.4 Bấy giờ ông Phê-rô
thưa với Đức Giê-su rằng: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu
Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và
một cho ông Ê-li-a."5 Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ
các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta
hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! "6 Nghe vậy, các môn
đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.7 Bấy giờ Đức Giê-su lại gần, chạm vào các
ông và bảo: "Chỗi dậy đi, đừng sợ! "8 Các ông ngước mắt lên, không thấy
ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi.
Câu hỏi về ngôn sứ Ê-li-a (Mc 9:9-13 )
9 Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông rằng:
"Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy."10
Các môn đệ hỏi Người rằng: "Vậy sao các kinh sư lại nói Ê-li-a phải đến
trước? "11 Người đáp: "Ông Ê-li-a phải đến để chỉnh đốn mọi sự.12
Nhưng Thầy nói cho anh em biết: ông Ê-li-a đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại
còn xử với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế."13
Bấy giờ các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông Gio-an Tẩy Giả.
Đức Giê-su chữa đứa trẻ bị kinh phong (Mc 9:14 -29; Lc 9:37 -43 a)
14 Khi thầy trò đến với đám đông, thì có một người tới quỳ xuống trước mặt
Đức Giê-su15 và nói: "Thưa Ngài, xin thương xót con trai tôi, vì cháu bị
kinh phong và bệnh tình nặng lắm: nhiều lần ngã vào lửa, và cũng nhiều lần ngã
xuống nước.16 Tôi đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài chữa, nhưng các ông không
chữa được."17 Đức Giê-su đáp: "Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin và
gian tà! Tôi còn phải ở với các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các
người cho đến bao giờ nữa? Đem cháu lại đây cho tôi."18 Đức Giê-su quát mắng
tên quỷ, quỷ liền xuất, và đứa bé được khỏi ngay từ giờ đó.
19 Bấy giờ các môn đệ đến gần hỏi riêng Đức Giê-su rằng: "Tại sao
chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy? "20 Người nói với các ông:
"Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng
hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: "rời khỏi đây, qua bên kia!
" nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được. (21 Giống quỷ
này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện)."
Đức Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ hai (Mc 9:30 -32; Lc 9:43
b-45 )
22 Khi thầy trò tụ họp ở miền Ga-li-lê, Đức Giê-su nói với các ông:
"Con Người sắp bị nộp vào tay người đời,23 họ sẽ giết chết Người, và ngày
thứ ba Người sẽ trỗi dậy." Các môn đệ buồn phiền lắm.
Đức Giê-su và ông Phê-rô nộp thuế
24 Khi thầy trò tới Ca-phác-na-um, thì những người thu thuế cho đền thờ
đến hỏi ông Phê-rô: "Thầy các ông không nộp thuế sao? "25 Ông đáp:
"Có chứ! " Ông về tới nhà, Đức Giê-su hỏi đón ông: "Anh Si-môn,
anh nghĩ sao? Vua chúa trần gian bắt ai đóng sưu nộp thuế? Con cái mình hay người
ngoài? "26 Ông Phê-rô đáp: "Thưa, người ngoài." Đức Giê-su liền
bảo: "Vậy thì con cái được miễn.27 Nhưng để khỏi làm gai mắt họ, anh ra biển
thả câu; con cá nào câu được trước hết, thì bắt lấy, mở miệng nó ra: anh sẽ thấy
một đồng tiền bốn quan; anh lấy đồng tiền ấy, nộp thuế cho họ, phần của Thầy và
phần của anh."
Mátthêu
Bài 10: Mẫu người “nửa đời nửa đạo”
Bài 10: Mẫu người “nửa đời nửa đạo”
Cuộc đời và số mệnh
Khoa Tử Vi chia và xếp hạng các tinh đẩu ra làm 3 loại: Chính Tinh,
trung tinh và phụ tinh. Sao Tử Vi được xem như chủ tể của các vì sao hay còn gọi
là đế tinh. Vì vậy, Tử Vì cũng tựa như một vị Vua dưới thời phong kiến. Vua
cũng có thể là minh quân, cũng có thể là hôn quân hoặc chỉ là Vua bù nhìn. Bản
chất của sao Tử Vi cũng vậy. Nếu ở những vị trí miếu, vượng thì Tử Vi là một
ông Vua đức độ, được thêm hiền thần (cát tinh) phò trợ thì chắc chắn là một
minh quân, nếu ở vị trí hãm địa hay bị bọn gian, nịnh thần (ám tinh, hung tinh)
vây quanh thì đương nhiên sẽ trở thành một hôn quân. Nhưng cũng có một vài vị
Vua tuy sa cơ thất thế, lạc vào hãm địa nhưng lại không trở thành xấu xa mà chỉ
có khuynh hướng chán mùi trần thế, muốn bỏ đời tìm đạo. Đó chính là nét đặc thù
của mẫu người Tử Tham Mão Dậu. Hay cũng có thể gọi là mẫu người Nửa Đời Nửa Đạo.
Trước tiên chúng ta thử tìm xem những nguyên nhân nào đã khiến cho bộ Tử
Tham khi cư ở Mão Dậu lại trở thành tốt không tốt hẳn, mà xấu cũng không xấu hẳn
như vậy? Hai cung Mão và Dậu là hai vị trí không tốt cho sao Tử Vi. Cũng tại
hai vị trí này Tử Vi gặp Tham hãm địa. Tuy là đế tinh nhưng nằm ở nơi bất lợi
cho nên Tử Vi mất hết uy lực nên dễ đưa đến khuynh hướng chán đời., yếm thế, và
hay có cái nhìn nghiêng nhiều về lãnh vực tâm linh. Muốn tìm sự yên ổn cho tâm
hồn nơi tôn giáo.
Đi xa hơn, chúng ta hiểu rằng khi nói về phương vị trong khoa Tử Vi thì
cung Mão là phương Đông, là hướng của mặt trời mọc, là biểu tượng ban mai. Cung
Dậu là phương Tây, là hướng mặt trời lặn, là biểu tượng của hoàng hôn. Hai cung
Mão và Dậu là hai thời điểm bắt đầu và chấm dứt của một ngày, cũng là biểu tượng
của sự sớm nở tối tàn, sớm nắng chiều mưa, và chính những biểu tượng này đã góp
phần vào khuynh hướng bi quan, yếm thế cho Tử Vi tại hai cung Mão Dậu.
Ngược lại, bản tánh của Tham là ham vui, thích sự náo nhiệt ồn ào trong
cuộc sống. Khi hãm địa thì sự ham thích danh lợi của Tham lại càng mạnh mẽ hơn
và ba chữ "Tham, Sân, Si" đều có đủ. Chữ "Tham" dẫn đầu để
lôi kéo quyến rũ Tử Vi vào vòng lẩn quẩn của thế tục. Như vậy, chúng ta có thể
nói đây là nét đặc biệt của mẫu người Tử Tham Mão Dậu. Nhưng chúng ta cũng nên
phân biệt 2 mẫu người sau đây:
1. Mẫu người có khuynh hướng về tôn giáo mạnh hơn những người khác khi
còn nhỏ, giống như một bản tính trời sinh. Đó là trường hợp chúng ta thấy những
đứa bé lúc nhỏ theo cha mẹ đến chùa, nhà thờ, hoặc tham dự những lễ lạt, thờ
cúng, v.v...Có những em bé làm theo như bổn phận, nhưng cũng có những đứa bé lại
có ý thích thú, tự ý học thuộc kinh sách, tự ý đến chùa, đến nhà thờ để tham dự
những sinh hoạt một cách tích cực... Và dần dần cái ý tưởng về tôn giáo ngày
càng rõ ràng hơn những đứa bé khác cùng trang lứa... Khi lớn lên, tùy theo mỗi
hoàn cảnh trải qua trong cuộc sống, nội tâm của họ phải chịu sự giằng co giữa đời
và đạo khiến cho họ nhìn đời mà ít khi thấy màu hồng. Và tùy theo mức độ hướng
về đời hay đạo, bên nào mạnh hơn, có nghĩa là còn tùy theo sự ảnh hưởng của các
sao đi cùng với chính tinh Tử Tham. Có người thể hiện khuynh hướng tôn giáo một
cách tiêu cực như thích làm việc xã hội, bỏ công bỏ của ra làm việc từ thiện,
hoặc tích cực hơn thì đó là những người tu tại gia, và hơn thế nữa thì theo con
đường tu hành ngay từ khi còn bé. Những biến chuyển này đều do tính trung hậu,
Phúc của Tử Vi mà ra. Nhưng ở Mão và Dậu, oái ăm thay Tử Vi lại ngồi chung với
Tham hãm địa. Đây là hình ảnh cho một cuộc đời khổ não. Bởi vậy dù đã bước vào
con đường tu hành nhưng nợ trần vẫn chưa dứt.
2. Mẫu người Tử Tham Mão Dậu là lúc khởi đầu của cuộc đời, họ hoàn toàn
chưa có một ý niệm mạnh mẽ gì về tôn giáo cả. Nhưng đến một lúc nào đó họ bị vấp
ngã để rồi chính những sự đau đớn chua cay ở đời đã dẫn dắt họ đến với đạo.
Nhưng vào được với đạo hay không thì còn tùy vào các sao đi cùng Tử Tham. Chẳng
hạn nếu gặp KHÔNG KIẾP thì khả năng và sác xuất tu hành rất cao. Nếu gặp Xương,
Khúc thì tâm còn vướng nặng chuyện của trần tục cho nên khó mà tu thành. Ngoài
ra nếu không đề cập đến phương diện tâm linh thì cuộc đời của những người Tử
Tham Mão Dậu cũng ba chìm bảy nổi, thành bại thất thường từ cuộc sống vật chất
cho đến vấn đề tình cảm lúc nào cũng đòi hỏi ở đương số một sự phấn đấu. Nhưng
cuộc đời cũng buồn nhiều hơn vui, ít khi được xúng ý toại lòng. Tóm lại: Mẫu
người Tử Tham Mão Dậu có một nét đặc biệt là có lòng tín ngưỡng rất mạnh ngay từ
khi còn bé. Cuộc sống của họ bị giằng co giữa đời và đạo, điển hình như những
người tu tại gia, tu xuất v.v... Điểm này có phần giống những người có Thiên
Không thủ Mệnh, là những người tuy không bi quan, yếm thế như Tử Tham Mão Dậu
mà họ chỉ hướng về tôn giáo mỗi khi gặp phải hoàn cảnh khó khăn, bị vấp ngã,
hay lưng trời gãy cánh (bán thiên triết sĩ).
(Sưu tầm)
Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2011
Khách qúy thăm nhà
1-Khách qúy thăm nhà
Vui sao mặc khách ghé qua nhà
Mừng hội ngộ ngày bạn với ta
Chào chị ngàn trùng không ngại khó
Đón anh vạn dặm xá chi xa
Qúy thương Đường luật cùng đua họa
Khách cảm văn thơ hợp xướng ca
Thăm thẳm tình người lưu luyến mãi
Nhà tràn hương sắc đượm nồng hoa.
16-9-2011/Trần Kim Lan
Bài họa của khách qúy:
Bài họa của khách qúy:
2-Vui mừng được chủ nhà đón nồng
hậu
(Họa bài “Khách quý thăm nhà”
của gia chủ”
Vui sao lại được đến
thăm nhà
Mừng cuộc tao phùng ta với ta
Được thấy nồng nàn người viễn xứ
Chủ còn lưu luyến bạn phương xa
Nhà cao ly rượu xôn xao cụng
Đón khách nhạc lòng rộn rã ca
Nồng thắm quản chi nơi đất lạ
Hậu kỳ tan cuộc nở đầy hoa
Mừng cuộc tao phùng ta với ta
Được thấy nồng nàn người viễn xứ
Chủ còn lưu luyến bạn phương xa
Nhà cao ly rượu xôn xao cụng
Đón khách nhạc lòng rộn rã ca
Nồng thắm quản chi nơi đất lạ
Hậu kỳ tan cuộc nở đầy hoa
12-12-2011/Hồ Văn Thiện
3-Mừng vui
khách qúy họa thơ
(Họa bài: Vui mừng được chủ nhà đón nồng hậu - TG: Hồ văn Thiện)
Mừng lắm ai ơi đã
tới nhà
Sao vui thế ấy
bạn và ta
Khách tuôn bảy
chữ vời bằng hữu
Qúy trải tám
câu nối nghĩa xa
Ghé ngắm vườn
xinh gieo nhạc khúc
Thăm xem thi phú
thả tình ca
Họa cùng gia chủ
bài Đường luật
Thơ tòa hương
lòng đượm sắc hoa.
14.12.2011/Trần Kim Lan
4- Chúc mừng năm mới
Trần Kim Lan!
Chúc hạnh phúc luôn đến ngụ
nhà
Mừng may mắn gặp thỏa lòng ta
Năm Thìn vẫn ở nơi ngàn dặm
Mới Mão đang còn chốn cách xa
Em tỏ thơ văn bài xướng họa
Trần tình tâm sự khúc hoan ca
Kim tiền chẳng thể lu tâm sáng
Lan tỏa hương nồng thăm sắc hoa.
19.1.2012/Lê Trường Hưởng
Hồn Quê Xin được họa vội đôi dòng:
5-Vui lắm
Vui lắm có Lan bước tới nhà
Mừng Người Viễn xứ lại làng ta
Chào anh vượt biển không say sóng
Đón chị ngàn trùng chẳng ngại xa
Qúy lắm tài thơ cùng xướng họa
Khách nhiều cảm xúc đến hòa ca
Thăm người xóm Lá ta yêu mến
Nhà Lá đơn sơ rực sắc hoa
21.1.2012/Hà Duy Tự
6- Chúc Tết vui tươi
Chúc phúc an khang bạn “cận nhà”
Mừng xuân tươi thắm khắp làng ta
Năm may lộc biếc tràn nơi ấy
Mới nụ mai vàng ấm chốn xa
Cô bác tưng bừng lời chúc Tết
Trần gian đồng điệu khúc hòa ca
Kim cương vàng trắng tay và cổ
Lan tới đôi hài kết điểm hoa (hi hi..)
Dung N (22.01.2012)
7-Vui cảnh tao đàn
Mừng xuân phấn khởi khách
chơi nhà
Vui cảnh tao đàn thỏa ý ta
Chào đệ không lo mưa nặng hạt
Đón huynh chẳng quản gió đường
xa
Khách sang thắt chặt tình thi
phú
Thơ đến hòa cùng tiếng hát ca
Thăm hỏi đầu xuân đầy nghĩa bạn
Nhà thêm lan tảo sắc hương
hoa .
24.1.2012/Tình Biển.
8-Cảm tác:
Lại về thăm bạn đồng hương
Bấy nay tung tẩy thi trường
ra răng?
Tôi thì vẫn viết lằng nhằng
Dăm câu ba chữ đãi đằng làm
vui
Cám ơn bạn vẫn có lời
Hỏi thăm sức khỏe đến tôi đều
đều!
(28.3.2012/Hồ Văn Thiện)
9-Cảm ơn khách qúy thật nhiều
Ghé thăm dẫu mệt liêu xiêu dặm
trường
Thi trường gác bút trùng
dương
Lang thang khắp nẻo vấn vương
quê nhà
Đi hoài nắng trải mưa sa
Vẫn mong chút nắng quê ta đượm
nồng.
28.3.2012/Trần Kim Lan
10-Cảm tác:
Ngày xuân dạo gót vườn Lan
Được nghe bản nhạc mênh mang
nỗi lòng
Nghìn năm huyền thoại Thăng
Long
Câu hò sông Mã ẩn trong tim nàng
Ru con từ thuở Hồng Bàng
Vẫn còn đeo nặng trên đàng mẹ đi
Xuân về xuân lại qua đi
Tình người còn mãi chẳng gì đổi thay
(1.2.2012/Hồ Văn Thiện)
11-Cảm ơn Khách qúy tới đây
Đọc thơ nghe hát tỏ bày niềm
thương
Xa quê trăn trở đêm trường
Nên thương nên nhớ tìm đường
về quê
Để quên cái rét tái tê
Để quên năm tháng não nề viễn
phương
Ở đâu cũng nhớ quê hương
Lời ru mẹ mãi vấn vương dặm
ngàn.
(1.2.2012/Trần Kim Lan)
12- Chúc mừng nhà mới
(Cảm tác)
Xây mới căn nhà đẹp quá ta
Bạn bè ghé lại lúc chiều tà
Có hồ trước ngõ bơi thư giãn
Có máy trong nhà tắm massage
Chiều đến mấy anh mời chén rượu
Tối về vài chị chúc ly trà
Vui vui ngồi viết bài thơ mới
Mong khách hoạ chơi rộn khắp nhà!
16.4.2012/Vũ Giang
13-Một ngàn lẻ sân ga
(Kính tặng chị Trần Kim Lan)
Ga này em đi
Khi lên năm tuổi
Ga này em đi
Từ độ lên mười.
Ga này hình như
Đã hai mươi tuổi.
Một ngàn sân ga
Bao nhiêu con đường?
Bao nhiêu con đường? Đường
nào vào thương nhớ
Sân ga nào thương nhớ, mãi
không thôi.
Có ai trả lời em không nhỉ,
Một ngàn ga
im lặng
Đã qua rồi!
Riêng có một sân ga ở một thời
xa lắm
Con tàu ấy qua đi, chưa trở lại
bao giờ !
Paris 13.7.2012/Lê Phương
Dung
Cảm ơn bài thơ Lê Phương Dung
cho mình có cảm xúc viết bài:
14-Nhớ sân ga ngày ấy
Đã có một chiều ga
Hớn hở cùng mẹ cha
Giã từ dòng sông Mã
Hà Nôi trở thành nhà.
Đã có một đêm ga
Hai ánh mắt sao xa
Dường như là định mệnh
Tình nảy lộc đơm hoa.
Đã có một sáng thu
Lãng đãng áng sương mù
Lá vàng rơi xao xác
Theo cánh chim nhẹ ru.
Từ ấy bến tha phương
Thăm thẳm biển trùng dương
Nhớ sân ga ngày ấy
Ao ước ngày hồi hương!
12.7.2012/Trần Kim Lan
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)