CUỘC ĐỜI VÀ SỐ MỆNH
Có những điểm giống nhau và
khác nhau của hai mẫu người Cự Kỵ và mẫu người Thai Phục Vượng Tướng.
Cự Môn thuộc nhóm Bắc Đẩu
tinh, hành Thủy, miếu địa ở Mão, Dậu, vượng địa ở Tí, Ngọ và Dần. Cự Môn là cái
miệng, con người sống cũng nhờ cái miệng, chết cũng vì cái miệng, được người
thương cũng do cái miệng, bị người ghét cũng bởi cái miệng của mình mà thôi...
nếu Cự Môn tọa thủ tại những vị trí miếu, vượng thì Cự Môn còn là biểu tượng của
sự giàu sang, thông minh, cơ trí, có khiếu ăn nói, có tài hùng biện, thích hợp
với các ngành ngoại giao, giao thiệp, dạy học, luật sư... Chẳng hạn nếu thấy lá
số của con cái mình có cách Cự Hổ Tuế Phù, là gồm các sao Cự Môn, Bạch Hổ, Tuế
Phá và Thiên Phù hội họp với nhau thì nên khuyến khích cho con cái đi vào ngành
luật, vì tương lai chắc chắn sẽ trở thành những luật sư tài giỏi. Nhưng ngược lại,
nếu Cự Môn rơi vào những nơi hãm địa thì đã không tài giỏi lại thiếu suy nghĩ,
cứ mở miệng ra là bị người ta ghét và suốt đời chỉ gặp toàn là những chuyện thị
phi khẩu thiệt .
Ý nghĩa thứ hai, Cự Môn là viên ngọc. Chẳng hạn,
Cự Môn ở Tí Ngọ là cách Thạch Trung Ẩn Ngọc, có nghĩa là ngọc còn ẩn trong đá,
Cự Môn gặp Nhật là cách Cự Nhật, là ngọc lấp lánh dưới ánh mặt trời, và Cự Môn
gặp Hóa Kỵ là cách Cự Kỵ mà chúng ta đang bàn đến, còn gọi là Tì Hà Ngọc, có
nghĩa là ngọc bị tì vết.
Sao thứ hai của cách này là
Hóa Kỵ, một ám tinh với nhiều tính xấu như độc hiểm, ích kỷ, ghen tuông, tai tiếng,
thị phi, kiện cáo, tai họa, bệnh tật, nông nổi và hay lầm lẫn... Với bản chất
như vậy, cho nên Hóa Kỵ đã làm cho viên ngọc Cự Môn thành tì vết, nhưng Hóa Kỵ
cũng có một điểm tốt là giữ được của.
Cách Cự Kỵ đối với nam mệnh,
ngoài những nét tổng quát là cuộc đời nhiều thất bại, lại thường hay bị nhiều
điều thị phi khẩu thiệt, tai nạn về xe cộ hay sông biển, mà cách này chỉ đáng
lưu ý hơn đối với nữ mệnh. Khi gọi cách Tì Hà Ngọc thì chữ ngọc hàm ý chỉ vào
phái nữ, hay nói rõ hơn là vấn đề trinh tiết, phẩm hạnh của một người đàn bà,
cho nên mẫu người Cự Kỵ mà chúng ta nói đến là bàn nhiều đến nữ có cách Cự Kỵ.
Với nữ mệnh có Cự Môn tọa thủ
và có Hóa Kỵ đồng cung, xung chiếu hay hợp chiếu thì ít nhiều cũng có điểm bất
lợi. Ở đây Cự Kỵ, Tham Kỵ, Đào Kỵ hay Thai Phục Vượng Tướng mà chúng ta sẽ đề cập
tiếp theo, thì sự cân nhắc nặng nhẹ phải hết sức thận trọng, vì vấn đề sẽ liên
quan đến danh tiết và phẩm hạnh của một người đàn bà. Do đó, chúng ta nên phân
biệt:
1) Nữ có Cự Môn miếu vượng tọa
thủ và gặp Hóa Kỵ, chúng ta phải xem ở cung Mệnh và Thân, Phúc, Phu, Quan,
Nô... để xem nếu có những sao xác định nết đoan chính như Nhật, Tứ Đức... hoặc
những sao khắc chế tính lẳng lơ như Hóa Khoa, Thiên Hình... thì Cự Kỵ ở đây nhẹ
là những người thường hay gặp các hoàn cảnh khiến cho mình bị những tai tiếng
thị phi hoặc dễ bị người khác hiểu lầm, đánh giá sai lầm phẩm hạnh của mình mà
có những lời nói, cử chỉ xúc phạm, sách nhiễu tình dục (sexual harassement). Mức
độ nặng hơn, nếu gặp những sao như Thiên Hình, Kiếp Sát... thì có thể vì bệnh tật
mà phải mổ xẻ, như cắt bỏ buồng trứng, tử cung v.v... Hoặc có thể là những tai
nạn về xe cộ và đáng kể nhất là những tai họa về sông biển như một số người đã
gặp trên đường vượt biển trong những năm về trước. Như vậy, trong trường hợp
này, viên ngọc của cách Tì Hà Ngọc vốn là một viên ngọc sáng, nhưng vì hoàn cảnh
mà rơi xuống bùn nên vấy bùn, hoặc bị lăn xuống đường nên có tì vết, đó là
ngoài ý muốn, là tai nạn của đương số mà thôi.
2) Cự Môn tuy là miếu, vượng
mà gặp Hóa Kỵ, lại còn được sự hỗ trợ của các sao có tính lãng mạn, như Xương,
Khúc, Hồng Loan hoặc lẳng lơ, ham chuộng vật chất, nặng phần tình dục như Tham,
Đào Hoa, Thiên Riêu v.v... thì những gì không tốt xảy ra cho đương số là do bản
tính chứ không phải là những rủi ro, tai nạn, và hoàn cảnh chỉ là những trợ lực
thúc đẩy thêm mà thôi. Chẳng hạn, nữ mệnh có cách Cự Kỵ lại gặp thêm Đào Hồng
thì làm sao mà giữ được trinh tiết cho đến ngày lên xe hoa, và khi đã có gia
đình thì một đời cũng đau khổ vì tình hoặc phải lo buồn vì chồng con, dù cho họ
có một cuộc sống vật chất đầy đủ, dù cho họ cũng có địa vị trong xã hội, là những
mệnh phụ phu nhân... Trường hợp này có thể ví như Thúy Kiều, ở cái thời xa xưa
đó, với xã hội phong kiến đó, mà nửa đêm thân gái một mình vào nhà Kim Trọng
đánh đàn, thì làm sao trách được sự đánh giá nghiêm khắc của người sau: Đoạn
trường cho đáng kiếp tà dâm. Và như vậy, viên ngọc của cách Tì Hà Ngọc trong
trường hợp này là một viên ngọc vốn đã có vết, có bọt ngay từ trong lòng đất,
chứ không phải do tay người dũa ngọc hay người chủ của viên ngọc.
3) Trường hợp nữ mệnh có Cự
Môn hãm địa tọa thủ mà không được Tuần, Triệt án ngữ hay được các sao
"đoan chính" hóa giải phần nào thì đây là một mẫu người, có một bề
ngoài mà ai mới gặp cũng thấy yêu thích, nhưng khi tiếp cận lâu dài thì mới thấy
rõ con người thật được che đậy vốn là một người đàn bà chua ngoa, ghen tương, đố
kỵ đủ điều... Và nếu đi kèm với một ám tinh Hóa Kỵ nữa thì ba chữ Tì Hà Ngọc thật
là đúng nghĩa!
4) Cách Cự Kỵ dù tọa thủ tại
cung Mệnh hay các cung Phúc, Quan, Tài hay Phu cũng còn nói lên sự bất ổn trong
cuộc sống tình cảm của đương số. Lá số có cách Cự Kỵ một đời khó lòng chỉ có một
mối tình hay chỉ một cuộc hôn nhân, chuyện gãy đổ, chắp nối hay sống với nhau
theo kiểu già nhân ngãi, non vợ chồng là chuyện bình thường của mẫu người này,
nếu không được những sao hóa giải. Các trở ngại hay đổ vỡ trong tình cảm thường
là do sự khắc khẩu, ảnh hưởng của Cự Môn, và tính ghen tuông cũng như lòng ích
kỷ quá nặng, ảnh hưởng của Hóa Kỵ.
Tóm lại, cách Cự Kỵ không tốt
cho cả nam và nữ nhưng nữ mệnh thì nặng nề và tai hại hơn trong lãnh vực trinh
tiết và phẩm hạnh, cuộc đời chắc chắn là một kiếp phong trần, chỉ khác nhau ở mức
độ nặng nhẹ mà thôi. Nhưng ở đây, chúng ta đừng quên một trường hợp đặc biệt,
cách Cự Kỵ lại rất tốt cho những người tuổi Quý và tuổi Thân, khoa Tử Vi Đẩu Số
gọi là phản vi kỳ cách, có nghĩa là từ xấu trở thành tốt vì có sự ứng hợp.
(Sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét