Năm Thìn kể chuyện
Rồng
(Nhâm Thìn từ 23-01-2012 đến 09-02-2013)
(Trích dẫn tác phẩm Tử-Vi
& Địa-Lý Thực-Hành của Gs Hàn Lâm Nguyễn-Phú -Thứ)
Sau
khi năm Tân Mão chấm dứt, thì đến năm Nhâm Thìn được bàn
giao từ giờ giao thừa bắt đầu giữa đêm chủ nhựt, 22-01-2012 để
cầm tinh đến24 giờ đêm 09-02-2013. Năm Nhâm Thìn này thuộc
hành Thủy và mạngTrường Lưu Thủy tức Nước chảy giòng lớn, năm
này thuộc Dương, có canNhâm thuộc mạng Thủy và có chi Thìn thuộc
mạng Thổ. Căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành, thì năm này "Chi
khắc Can" tức Đất khắc Trời .Bởi vì: " Mạng Thổ
= Thìn khắc mạng Thủy = Nhâm (mạng Thổ tức Đất được
khắc xuất, mạng Thủy tức Trờì bị khắc nhập). Do vậy,
năm này mặc dù bị khắc kỵ, nhưng tổng quát nó không bị ảnh hưởng xấu nhiều
như nămTrời khắc Đất giống như các năm : Giáp Tuất (1994), Nhâm Ngọ
(2002), Mậu Tý 2008 đã qua. Được biết năm Thìn vừa qua là năm Canh
Thìn thuộc hành Kim, nhằm ngày thứ
bảy, 05-02-2000 đến 23-01-2001.
Căn
cứ theo Niên Lịch Cổ Truyền Á Đông xuất hiện được minh định quảng
bá từ năm thứ 61 của đời Hoàng Đế bên Tàu, bắt đầu năm 2637trước Công
Nguyên, cho nên chúng ta lấy 2637 + 2012 = 4649, rồi đem chia cho 60 thì
có kết quả Vận Niên Lục Giáp thứ 77 và số dư 29 năm
bắt buộc rơi vào Vận Niên Lục Giáp thứ 78 bắt đầu từ năm 1984 cho
đến năm 2043.Do vậy, năm Nhâm Thìn 2012 này là năm thứ 29 của Vận
Niên Lục Giáp 78.
Năm nay là con Rồng cầm
tinh, là một linh vật đứng đầu trong trong tứ linh là :Long, Lân, Qui và Phụng
(Phượng). Bởi vì, Rồng là linh vật tổ của tộc Việt và Trung
Hoa thuộc Á Châu, cho nên lấy hình Rồng thêu lên y phục cho vua
chúa và xây cất đền đài lăng tẩm ngày xưa cũng có lộng hình Rồng; Lân là
linh vật có hình dáng giống con Sư Tử, Vua Chúa có nhân đức lắm mới thấy nó.
Do vậy, người ta thường bong hình con vật nầy để múa trong dịp bước sang năm
mới, với ý muốn mọi nhà đều được Lân đến, thì cả năm làm ăn phát đạt; Qui là
linh vật cũng như loại Rùa, nhưng nó rất quý hiếm như Rùa Vàng =
Kim Quihay Thần Rùa = Thần Qui; Phụng (Phượng) là
linh vật cũng là chúa loại cầm thú, có lông ngũ sắc vô củng tuyệt đẹp, cho
nên có câu : Tiên Sa Phụng (Phượng) Lộn là thế đó! Đây là, con vật
thứ tư của Tứ Linh.
Căn cứ theo Dương Âm, thì tứ
linh sẽ là : Long (Dương), Lân (Âm), Qui(Dương) và Phụng
(Phượng) (Âm). Bởi vì, trên thế gian này, phải có Trời(Dương) và Đất (Âm)
tạo hóa kết thành, cho nên trong Tứ Linh trở thành 2 cặp Dương Âm
không thể tránh khỏi, nghĩa là từ Dương tới Âm, rồi hết Âm sang
Dương, không khác từ Ngày (Mặt Trời) đến Đêm (Mặt Trăng),
và từ đó ngày nay chúng ta thấy đặt tên các bảng tiệm hoặc các đám cưới người
ta may cặp gối cũng dùng Long (Dương = Chồng ) và Phụng (Phượng) (Âm
= Vợ) ngắn gọn và không mất ý nghĩa cặp Dương Âm kết thành.
Trong kho tàng Cao dao, Tục
ngữ và Thành ngữ trong dân gian Việt Nam, cũng nhắc đến con Rồng, xin trích dẫn
như sau :
Rồng nằm bể cạn phơi râu,
Mấy lời anh nói, giấu đầu,
hở đuôi.
Rồng vàng tắm nước ao tù,
Người khôn ở với người ngu
bực mình.
Rồng giao đầu, Phụng (Phượng) giao
đuôi,
Nay tui hỏi thiệt : Mình
thương tui không mình?
Rồng chầu ngoài Huế,
Ngựa tế Đồng Nai,
Sông trong chảy lộn sông
ngoài,
Thương người xa xứ lạc loài
tới đây,
Tới đây, thì ở lại đây,
Bao giờ bén rễ, xanh cây
thì về....
(Ca
dao)
Rồng đen lấy nước thì nắng,
Rồng trắng lấy nước thì
mưa....
(Tục
ngữ)
Rồng bay Phụng (Phượng) múa.
Rồng mây gặp hội.
Rồng dến nhà Tôm.
Rồng thiêng uốn khúc.
Rồng ở với Giun.
Vẽ Rồng vẽ Rắn...
(Thành
ngữ)
Ngoài ra, Rồng là con linh
vật cao quí nhứt, cho nên tượng trưng cho vua chúa, bởi có chữ như sau : Long
Vương = Vua (Thần) Biển - Long Bào = Áo Vua - Long Nhan = Đức Vua - Long Thuyền
= Ghe thuyền để Vua đi, ngự - Long Sàng = Giường Vua ngủ, ngự - Long Mạch = Mạch
Rồng, chỗ đất thạnh vượng, có chôn ai xuống đó, thì con cháu sẽ được giàu
sang - Long Huyệt = Hàm Rồng - Long Phi = Hoàng hiệu Rồng bay - Ngân Long Phi
= Tiền có hình Rồng bay - Đền Rồng = Đền Vua - Ngai Rồng = Ngai Vua ngự - Bệ
Rồng = Bệ Vua ngự - Rồng Chầu = Rồng chực chầu Vua Chúa, nên có
câu : Rồng chầu, Hổ phục - Thuyền Rồng = Thuyền Vua ngự - Hội Rồng mây = Hội
Vua, Tôi gặp gỡ....
Hơn nữa, trong các cây cũng
có tên Rồng, xin trích dẫn như sau : Xương Rồng, Lưỡi Rồng, Đậu Rồng...
hoặc là : Cá Rồng Rồng, Cá
hóa Long....
hay là Duyên cỡi
Rồng (để chỉ duyên gái lành, gặp người chồng tốt)
- Giờ Thìn là giờ từ 7 đến
9 gìờ sáng.
- Tháng Thìn là tháng ba của
năm Âm Lịch.
Trong tiếng Pháp, thường
dùng Le Dragon (n.m) = Con Rồng đực.
Năm nay, là năm Nhâm
Thìn, có can là Nhâm cũng là năm đặc biệt, rớt đúng vào năm trong
dân gian thường nói :" Nam Nhâm nữ Quý " để chỉ người pháiNam có
tuổi Nhâm và người phái Nữ có tuổi Quý xem như
tốt.
Nhưng
nếu chúng ta bình tâm mà xét cho kỹ, thì không thể chấp nhận được, bởi vì con
người sanh ra có : Giờ, Ngày, Tháng và Năm, với thời gian đó thường kết hợp Can và Chi.
Hơn nữa, chúng ta chỉ thấy phái nam có can làNhâm và phái nữ có
can là Quý, mà kết luận như thế thì quá vội vàng. Mặc dù, can Nhâm thuộc dương và
can Quý thuộc âm là thuận chiều. Ngoài ra, trongThập
Thiên Can không những chỉ có can Nhâm là dương,
mà còn có các can dương nữa là : Giáp, Bính, Mậu, Canh. Do vậy,
trong Thập Thiên Can có năm can dương đã dẫn và năm can âm là : Ất,
Đinh, Kỷ, Tân, Quý. Về hành trongThập Thiên Can chúng nó cũng
đi từng cặp với nhau.
Xin trích dẫn nhắc lại
(trang 138 và 1523) bảng kê :
1.- Thập Thiên Can đối với
Ngũ Hành
Do vậy, cặp can Nhâm,
Quý chỉ là một trong năm cặp của Thiên Can mà thôi.
Hơn nữa, mỗi tuổi phải kết
hợp Can và Chi, ví như năm Nhâm Thìn là năm được kết hợp can Nhâm và chi Thìn
(nên nhớ rằng can dương kết hợp với chi dương và can âm kết hợp với chi âm).
Muốn biết năm tuổi nào đó tốt
hay xấu, thì chúng ta phải phân tách về ngũ hành xem coi có thuận hạp hay khắc
kỵ không? Có như thế mới chánh xác và trung thực của vấn đề.
2.- Thập Nhị Địa đối với
Ngũ Hành
Vậy tuổi phái nam có can
Nhâm gặp chi Thìn tốt hay xấu ?
Căn cứ theo luật thuận
hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành thì :"Thổ khắc Thủy" cho
nên chi Thìn thuộc hành Thổ khắc kỵ can Nhâm thuộc
hành Thủyhay nói khác đi can Nhâm thuộc hành Thủy bị
chi Thìn thuộc hành Thổ khắc kỵ.
Người có tuổi Can Chi tương
khắc nhau, thì xem như tuổi Không Tốt. Do vậy, chúng ta kết luận rằng
dù người phái nam có can Nhâm, mà kết hợp với chi không thuận hạp ngũ hành để
đưa đến tương sanh, thì vẫn là tuổi Xấu như thường. Nếu người phái nam có can
Nhâm hay can dương nào khác được kết hợp với chi được tương sanh ngũ hành,
thì xem như tuổi đó sẽ là tuổi Tốt, ví như tuổi Nhâm Dần. Bởi vì, tuổi
này có can Nhâm thuộc Thủy và chi Dần thuộcMộc,
căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành thì được tương sanh : "Thủy
sanh Mộc"
Từ
đó, chúng ta kết luận rằng : "Nam Nhâm, Nữ Quý" chỉ có ảnh
hưởng đúng về Dương Âm mà thôi.
Đối
với tuổi Quý dành cho phái nữ, chúng ta cũng dùng phương thức trên
để phân tách một cách khoa học chánh xác như tuổi Nhâm dành cho
phái nam vậy.
Viết
đến đây, tôi cũng nhớ có người nói : "Người nào có tuổi can Mậu" thì
tương lai có đời sống nghèo nàn, vì chữ Mậu = Không. hoặc là :
"Người nào có tuổi can Canh" thì tương lai có đời sống đầy lo
lắng và cô độc, vì chữ Canh Cô mà
ra.
Đó là, sự đón mò thiếu khoa
học, có tánh cách dị đoan không thể chấp nhận được. Nếu những người phái nam
có can Quý hay can âm và những người phái nữ có can Nhâm hay can dương, thì
những người đó bị dương, âm trái ngược nhau vì không thuận chiều, thì đưa đến
đời sống trong tương lai không thể tốt hơn những người có can thuận chiều được.
Nhân đây, xin trích dẫn các
năm Rồng trong thế kỷ 20 như sau :
Giáp Thìn = từ
thứ ba 16-02-1904 đến thứ
sáu 03-02-1905
Bính Thìn = từ
thứ năm 03-02-1916 đến thứ hai 22-01-1917
Mậu Thìn = từ
thứ hai 23-01-1928 đến thứ bảy 09-02-1929
Canh Thìn = từ
thứ năm 08-02-1940 đến chủ nhựt 26-01-1941
Nhâm Thìn = từ
chủ nhựt 27-01-1952 đến thứ sáu 13-02-1953
Giáp Thìn = từ
thứ năm 13-02-1964 đến thứ hai 01-02-1965
Bính Thìn = từ
thứ bảy 31-01-1976 đến thứ năm 17-02-1977
Mậu Thìn = từ
thứ tư 17-02-1988 đến chủ nhựt 05-02-1989
Canh Thìn = từ
thứ bảy 05-02-2000 đến thứ
ba 23-01-2001
Nhâm Thìn = từ
thứ hai 23-01-2012 đến thứ bảy 09-02-2013
Dân
tộc và đất nước Việt Nam chúng ta đối với Rồng rất mật thiết với
nhau, bằng chứng là dân tộc chúng ta giòng giống Rồng Tiên, theo truyền
thuyết, Cha là Lạc Long Quân (gốc Rồng), kết hôn với Mẹ là bà Âu Cơ
(Tiên nữ), rồi sanh bọc trăm trứng, từ đó, chúng ta xem như giống Rồng
Tiên. Nếu chúng ta nhìn hình thể đất nước Việt Nam, từ Bắc chí Nam, với hình
cong chữ S, không khác con Rồng nằm uốn khúc dọc theo bờ biển và có
các địa danh như :Long Đỗ (Rún Rồng), Long Biên, Thăng Long (tên
thủ đô Việt tộc vào thế kỷ thứ 6), Vịnh Hạ Long (đây là kỳ quan thế
giới được công nhân), Bình Long, Phước Long, Long Thành, Long Khánh,
Long Hải (bãi tấm đẹp ở Vũng Tàu), Long Bình, Long An (nếu ai
đi trên đường từ Sàigòn về Miền Tây sẽ qua cầu Bến Lức thuộc Tân An ngày xưa,
nằm trong lãnh thổ Long An), Long Hồ(nằm trong lãnh thổ Vĩnh
Long), Long Mỹ (nằm trong lãnh thổ Chương Thiện),Thới Long (đây là
một xã của Quận Ô Môn, Tỉnh Cần Thơ ngày xưa, tức Hậu Giang ngày nay, nơi đây
có trồng nhiều cây trái danh tiếng nhứt là Cam, Bưởi...).
Ngoài ra, ở miền Tây có hai
địa danh mang tên Long, trở thành tỉnh lỵ, không những có những cây
trái ngon ngọt.... Đó là, Vĩnh Long và Long Xuyên.
Đất nước chúng ta trải dài
từ Bắc xuống Nam, bởi con Rồng xuyên Việt. Đó là, sông Cửu
Long, bởi vì con sông nầy phát nguồn từ cao nguyên xứ Tây Tạng, có
chiều dài hơn 4000 cây số, chạy qua các nước Trung Hoa, Lào, Cao Miên
(Campuchia), nơi đây có một nhánh thông vào biển hồ Tonlé Sap, rồi xuôi
về Nam bằng hai nhánh là Tiền Giang và Hậu Giang thuộc miền Tây Nam Phần Việt
Nam, còn gọi là sông Bassac, cuối cùng thoát ra bằng 9 cửa sông, cho nên có
tên gọi là Sông Cửu Long (tức 9 con Rồng).
Như chúng ta đã biết, dân tộc
Việt Nam là giống Rồng Tiên, cho nên đất nước Việt Nam cũng kết tạo từ
miền Bắc với thủ đô Việt tộc Thăng Long, với kỳ quan thế giới Vịnh
Hạ Long tức cha là Rồng, còn mẹ Tiên tức ở địa danh rất đẹp
có đồi núi, có sông biển hùng vĩ và đầy thơ mộng. Đó là, Hà Tiên, thuộc
tỉnh Rạch Giá (Kiên Giang).
Nhân dịp bước sang năm mới Mừng
Xuân Nhâm Thìn 2012, xin kính chúc quý bà con đồng hương mọi nhà làm ăn phát
đạt như Rồng bay và sức khoẻ thất đồi dào, mọi sự hạnh thông như ý là mừng.
(Nguyễn-Phú -Thứ)
Xuân Nhâm Thìn 2012
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét