NHÀ THƠ HỮU THỈNH TRẢ LỜI VỀ CHUYỆN “ĐẠO THƠ”
“Câu chuyện đạo thơ mà người
ta dựng lên ấy, biết thanh minh thế nào… Trời ơi ! Thỉ có người viết ra nó mới
biết được thôi”…Cả hội trường lại ran lên tiếng vỗ tay, như đồng cảm với tiếng
thở dài của nhà thơ.
HNVC: Báo Tiền Phong Cuối Tuần
số 16 (16-22/4/2007) vừa đăng bài tường thuật “Nhà thơ Hữu Thỉnh trả lời về một
nghi án văn chương” của Ngọc Phượng (nghe nói là của nhà văn Hoàng Minh Tường).
Thực ra đây là một bài tường thuật dài về cuộc giao lưu của một số nhà văn với
Đại học Sư phạm HN. HNVC tuần này muốn bàn tới cái chữ ĐẠO (tặc) nên chỉ xin
trích đoạn nhà thơ Hữu Thỉnh trả lời về cái sự đạo mà công chúng đã nóng lòng
chờ đợi từ lâu, như một cách làm sáng tỏ hơn “nghi án” này mà thôi. Cũng nhân
đây, HNVC xin phép giới thiệu một số tư liệu đã đăng tải trên báo trong và
ngoài nước do nhà văn Đoàn Tử Huyến vừa gửi tới chúng tôi ngày hôm qua. Có một
số bài viết chung quang chuyện này đã đăng trên báo Pháp Luật và một số báo (giấy)
trong nước, HNVC chưa tìm được. Có ai có sẵn, post cho HNVC được không?
NHÀ THƠ HỮU THỈNH KÊU TRỜI
(………………….)
Nhưng đến câu hỏi này thì hội
trường bỗng căng ra :
- Thưa, gần đây trên mạng
internet có một số ý kiến xung quanh bài thơ “Hỏi ” của
nhà thơ. Có người cho rằng“ Hỏi ” giống một bài thơ của nữ thi sĩ người Đức.
(*) Xin ông cho biết về sự việc này ?
Nhà thơ Hữu Thỉnh bật
lên như ngồi trên ghế nóng:
- Trước khi trả lời, tôi muốn
biết ai là người ra câu hỏi này thế ?
Mọi ánh mắt đều dõi một vòng
quanh hội trường. Không khí bỗng lặng phắc. Không có cánh tay nào giơ lên. Có
ai đó thì thầm: “Lẽ ra MC Hồng Minh không nên đọc câu hỏi này. Cuộc giao lưu sẽ
mất vui…”.
Nhà thơ Hữu Thỉnh đảo mắt
nhìn quanh, cố tìm ra một cánh tay thẳng thắn giơ lên. Không có. Rồi ông mỉm cười
:
- Cám ơn bạn nào đã đưa ra
câu hỏi này, nhưng vì tế nhị đã giấu tên. Một câu hỏi thẳng thắn và rất quan trọng
đối với tôi. Xin thú thật là, mấy tháng nay, và cho đến bây giờ tôi vẫn như
mang một cái án trên mình. Tôi bị người ta khép vào tội đạo thơ, tội ăn cắp mà
không biết thanh minh với ai, kêu cầu với ai. Nhân đây, tại một diễn đàn văn
chương, xin được trình bày: Tôi làm bài thơ này cách đây hơn mười năm. Làm rất
nhanh, chỉ trong vài mươi phút. Tôi còn nhớ khi đó, tôi vừa trải qua một cuộc
tâm sự với nhà thơ Phạm Tiến Duật, bạn tôi, đang ngồi đây. Hôm đó, chúng tôi ngồi
với nhau gần một buổi chiều. Khi anh Duật về, tôi liền nảy ra một tứ thơ. Và viết
liền một mạch cho đến dấu chấm câu cuối cùng. Bài thơ “Hỏi” được in
ngay sau đó ít lâu. Năm 2002, tôi có đọc bài thơ “Thượng đế làm ra mặt trời” của
nhà thơ người Đức được dịch và in trên Tạp chí Văn học nước ngoài. Lần đầu tiên
tôi được đọc bài thơ này. Vì tôi đâu có biết tiếng Đức. Về ngoại ngữ, tôi
không thạo một thứ tiếng nào, tiếng Đức càng mù tịt. Trước đó, tôi hoàn toàn
không biết có bài thơ ấy và tác giả người Đức ấy. Trong các bài báo đăng trên mạng
vừa rồi, có người lại bảo, bài thơ này đã được dịch ra tiếng Việt và in tại Sài
Gòn trước năm 1975. Tức là người ta muốn gán cho tôi đã ăn cắp từ bản dịch
tiếng Việt đó. Thế thì tôi có cãi đằng trời. Nhưng xin thưa, cho tới giờ vẫn
không có ai cho tôi và tất cả mọi người ngồi đây được thấy bài thơ đã dịch và
in ở Sài Gòn ấy cả… Câu chuyện đạo thơ mà người ta dựng lên ấy, biết thanh minh
thế nào… Trời ơi ! Chỉ có người viết ra nó mới biết được thôi…
Cả hội trường lại ran lên tiếng
vỗ tay, như đồng cảm với tiếng thở dài của nhà thơ.
TRÍCH BÀI ĐI TÌM NHỮNG BÀI
THƠ PHÓNG TÁC CỦA LÃNG DU TỬ
(đã đăng trên VietNamnet)
(…….)
Và đây là bài thơ của nữ nhà
thơ Đức Christa Reinig (sinh năm 1926):
Gott schuf die sonne
Ich rufe den wind
wind antworte mir
ich bin sagt der wind
bin bei dir
ich rufe die sonne
sonne antworte mir
ich bin sagt die sonne
bin bei dir
ich rufe die sterne
antwortet mir
wir sind sagen die sterne
alle bei dir
ich rufe den menschen
antworte mir
ich rufe – es schweigt
nichts antwortet mir
(Trong tập Thơ “Gedichte“,
nxb S. Fischer, 1963).
Trong tạp chí Văn học nước
ngoài năm 2002 có đăng bản dịch của Quang Chiến:
Thượng đế đã làm ra mặt trời
Tôi gọi gió
Gió hãy trả lời tôi
Gió nói
Tôi ở bên em.
Tôi gọi mặt trời
Mặt trời hãy trả lời tôi.
Mặt trời nói
Tôi ở bên em.
Tôi gọi các vì sao,
Xin hãy trả lời tôi
Các vì sao nói
Chúng tôi ở bên em.
Tôi gọi con người,
Xin hãy trả lời tôi
Tôi gọi – im lặng
Không ai trả lời tôi.
(Quang Chiến dịch)
Trước đây, ở miền Nam cũ cũng có
bản dịch tôi không nhớ của ai, xin ghi lại như sau:
Thượng đế sinh ra mặt trời
Tôi hỏi gió
Gió với em thế nào?
- Gió luôn ở bên em.
Tôi hỏi mặt trời
Mặt trời với em thế nào?
- Mặt trời luôn ở bên em.
Tôi hỏi các vì sao
Các vì sao với em thế nào?
- Các vì sao luôn ở bên em.
Tôi hỏi con người
Con người với em thế nào?
- Con người im lặng không ai trả lời tôi
Tình cờ, gần đây tôi cũng được
biết một bài có thể gọi là phỏng dịch của nhà thơ Hữu Thỉnh, đó là bài Hỏi:
Hỏi
Tôi hỏi đất: Đất sống với đất
như thế nào?
- Chúng tôi tôn cao nhau.
Tôi hỏi nước: Nước sống với
nước như thế nào?
- Chúng tôi làm đầy nhau.
Tôi hỏi cỏ: Cỏ sống với cỏ
như thế nào?
- Chúng tôi đan vào nhau làm nên những chân trời.
Tôi hỏi người:
- Người sống với người như thế nào?
Tôi hỏi người:
- Người sống với người như thế nào?
Tôi hỏi người:
- Người sống với người như thế nào?
*
TRÍCH BÀI “AI ĐẠO AI” CỦA THƯỜNG
NHÂN
(Bài này và các bài sau đã
đăng trên Talawas) Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã từng khen bài thơ “Hỏi” của Hữu
Thỉnh: “Đọc Hữu Thỉnh, dễ nhận thấy anh thường chặt ở câu mà lỏng ở bài. Có người
bảo anh là “nhà thơ nhiều câu ít bài”, kể cũng có lý của họ… (Nhưng trong tập Thư
mùa đông – TN) hiệu quả lập tứ hiện rõ ở các bài “Người ấy”, “Chạm cốc với
Xa-in”, và đặc biệt là bài “Hỏi” (…) Đấy là một nghệ thuật cô đúc, tinh vi chặt
chẽ đến nỗi, ít mà không thiếu, nhiều mà chẳng thừa. Tác giả hoàn toàn làm chủ
những con chữ của mình, mà người đọc vẫn cảm thấy như tự bài thơ nó vốn thế, nó
là một khối vẹn toàn, lấp lánh tâm hồn và trí tuệ. Những bài thơ như thế làm mới
Hữu Thỉnh…” (Văn chương cảm và luận, Nxb Văn hoá Thông tin 1999)Nhận xét
như thế là rất đúng với bài thơ “Hỏi”. Nhưng lúc đó, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo
không hề biết là trước Hữu Thỉnh, đã có bài thơ “Thượng đế sinh ra mặt trời” của
nữ thi sĩ Đức Christa Reinig (1)(sinh năm 1926), trong một tập thơ của bà đoạt
giải thưởng Văn chương Bremen 1964(….)
Bản dịch ra tiếng Việt của miền Nam trước 1975, không rõ tên dịch giả, được lưu
truyền như sau: (…..)
Bài thơ này còn có một bản dịch khác, của Quang Chiến, in trên tạp chí Văn
học nước ngoài của Hội Nhà văn Việt Nam số 6–2002: (……….)
Còn bài thơ “Hỏi” của Hữu Thỉnh đã in ở nhiều sách, nó còn là bài đọc thêm
trong sách giáo khoa phổ thông (chắc các nhà biên soạn sách giáo khoa cũng chưa
hề biết bài thơ trên của Christa Reinig). Nguyên văn như sau: (……….)Đặt hai bài
thơ của hai tác giả một Đức một Việt cạnh nhau, sao chúng giống nhau đến thế.
Giống nhau về lập tứ, giống nhau về tinh thần, giống nhau về tư tưởng, giống
nhau về cả cách hỏi, cách lập ngôn. Nó như là thơ “phỏng dịch” của nhau vậy.
Christa Reinig chọn 4 đối tượng để hỏi: Gió, mặt trời, sao, người. Hữu Thỉnh
cũng chọn 4 đối tượng để hỏi: Đất, nước, cỏ, người. Ba đối tượng trên có thể
thay đổi thế nào cũng được, ví dụ có thể hỏi bò, lợn, chó xem nó sống với nhau
thế nào, chắc cũng sẽ có những câu trả lời hay. Ví dụ:
Tôi hỏi bò: Bò sống với bò thế nào?
- Chúng tôi nhường cỏ cho nhau.
Tôi hỏi lợn: Lợn sống với lợn
thế nào?
- Chúng tôi ủn ỉn cùng nhau.
Tôi hỏi chó: Chó sống với chó
thế nào?
- Chúng tôi sủa cùng nhau.
Nhưng muốn bài thơ có tứ hay, nhất thiết là phải giữ nguyên đối tượng thứ tư, đấy
là con người, thì bài thơ mới trở nên hoàn chỉnh. Với bài thơ “Bò lợn chó” trên
đây, chỉ cần ghép thêm vào đoạn kết của Christa Reinig hoặc của Hữu Thỉnh là
không chê vào đâu được.
Vậy thì nhà thơ cần sáng tác ra bài thơ, hay chỉ cần đi sửa lại đôi chút thơ
người khác? Tất nhiên đã là nhà thơ thì phải tự mình làm ra ý, ra tứ, ra lời, tức
là làm ra “bài thơ của mình”. Việc cóp nhặt thơ, ăn cắp thơ, đạo thơ… những tưởng
chỉ có những người mới tập làm thơ, hay những kẻ hám danh “trẻ người non dạ” mới
phạm tội. Vậy mà câu chuyện đạo thơ ấy nó lại rơi đúng vào ông Chủ tịch Hội Nhà
văn – người đã từng đoạt một bồ giải thưởng về thơ của Hội Nhà văn. Liệu người
ta có tin được những giải thưởng ấy nữa hay không? Biêt nó là giải thật hay giải
dỏm?Nghe nói Hữu Thỉnh là nhà thơ chịu ảnh hưởng sâu sắc ca dao tục ngữ. Nhưng
ông đâu chỉ ảnh hưởng ca dao tục ngữ – thơ ca khuyết danh, có cóp cũng chẳng
sao. Tỷ như Hữu Thỉnh đã “sửa” hai câu thơ của Tự Đức (vì tưởng là của Khuyết
Danh?): “Đập cổ kính ra tìm thấy bóng – Xếp tàn y lại để dành hơi” thành ra thơ
của mình: “Mở trăng ra tìm – Trăng còn in bóng – Mở cỏ ra xem – Cỏ còn hơi ấm”.
Nhưng cứ như bài thơ “Hỏi” thì ông còn “ảnh hưởng” cả thơ hữu danh của Đức. Nếu
mà ông không biết chuyện này, sang làm việc với các nhà thơ Đức, lại đem bài
thơ “Hỏi” ra đọc, và người ta dịch lại tiếng Đức bằng chính bài thơ của Christa
Reinig, chắc sẽ được vỗ tay đến không về nước được. Văn nghệ Việt Nam gần đây kể
cũng hơi bị buồn. Chưa xong câu chuyện “tự nguyện” rút khỏi giải thưởng khi bị
các nhạc sĩ tố giác “đạo nhạc” của nguyên Tổng thư ký Hội Nhạc, đã đến chuyện
“đạo thơ” và tự trao giải thưởng cho mình của ông Chủ tịch Hội Văn. Âu cũng là
câu chuyện có vay có trả vậy. Thôi thì người của công chúng cũng “nhân bất thập
toàn” mà. Tôi đưa ra cái chuyện “Ai đạo ai” này chẳng qua cũng là muốn trị bệnh
cứu người, và muốn những nhà soạn sách giáo khoa cũng nên xem kỹ lại bài thơ “Hỏi”
mà thôi.
(1) Christa Reinig
(1926): Trước 1964, Christa Reinig là nhà thơ Cộng hoà Dân chủ Đức (Đông Đức).
Tuy nhiên, ngay từ năm 1951, bà đã bị cấm xuất bản tại Đông Đức. Năm 1964, nhân
dịp đi Bremen (Tây Đức) nhận giải thưởng cho tập thơ xuất bản năm 1963 – trong
đó có bài “Gott schuf die sonne” – bà đã ở lại Cộng hoà Liên bang Đức, không trở
về Đông Đức nữa (chú thích của talawas).
TRÍCH BÀI “EM, ANH, TA, VÀ
TÔI” CỦA TRẦN KH.
(…….) Ủa, mà hình như tôi hơi
bị sa đà với chuyện tủm tỉm (của riêng tôi), suýt chút nữa quên phắt cái lý do
khiến tôi viết những dòng này, đó chính là bài viết của Thường Nhân bàn về chuyện
Hữu Thỉnh đạo văn, vừa đăng trên talawas.
Tôi không chắc là Christa Reinig có cười (mếu) được hay không khi nghe Thường
Nhân đòi ghép khổ thơ cuối cùng của bà vào bài thơ “Bò lợn chó” và bảo là sẽ…
không chê vào đâu được. Chuyện hai bài thơ có giống nhau về cách lập tứ, cách hỏi
và cách lập ngôn hay không thì tôi không rõ lắm, cái này thì phải để tôi đi hỏi
ông Đặng Tiến. Nhưng khi Thường Nhân bảo hai bài thơ giống nhau về tinh thần,
giống nhau về tư tưởng, và buộc tội Hữu Thỉnh đã đạo thơ thì tôi thấy hình như
ông đã đi quá xa. Tôi có cảm giác rằng nguyên nhân dẫn đến sự nhầm lẫn trong
đánh giá cũng chỉ vì cả hai bài dịch tiếng Việt, một của miền Nam trước 1975
(?) và một của Quang Chiến, đều không cho người đọc có cơ hội chọn lựa cách hiểu
khác nhau của mình, như khi ta đọc nguyên bản tiếng Đức. Chung qui theo tôi
cũng chỉ tại cái khả năng biến hoá của tiếng Việt mà tôi đã nói trên. Trong cả
hai bản dịch, chữ Ich/mir được dịch là tôi và chữ dir được
dịch là em. Nghĩa là các “nhân vật” trong bài thơ ngắn này chỉ có thể là
gió, mặt trời, các vì sao và con người. Bài thơ, theo tôi, sẽ có một chiều kích
khác nếu ta đem yếu tố tôn giáo vào. Tôi ở đây không nhất thiết phải
là người mà rất có thể là thượng đế. Nếu cảm nhận theo cách này,
và đây cũng là cách cảm nhận của riêng tôi lúc đọc bài thơ bằng tiếng Đức, thì
ta có thể dịch bài thơ như thế này:
Thượng đế đã tạo ra mặt trời
ta gọi gió
này gió hãy trả lời ta
gió nói con
luôn ở bên ngài
ta gọi mặt trời
mặt trời hãy trả lời ta
mặt trời nói con
luôn ở bên ngài
ta gọi các vì sao
hãy trả lời ta
các vì sao nói tất cả chúng con
đều ở bên ngài
ta gọi con người
hãy trả lời ta
ta gọi – im lặng
không ai trả lời ta
Dĩ nhiên là dịch theo kiểu này thì, tương tự như kiểu dịch kia, cũng sẽ không
còn chỗ cho người đọc hiểu theo một cách khác. Để tìm hiểu thêm tác giả bài thơ
thực sự viết theo nghĩa nào, tôi google một phát và thấy buồn cười vì bắt gặp
trong kết quả tra tìm một… bài giảng đạo [1] của
một mục sư có tên là Stefan Mai. Ông lấy bài thơ của Reinig làm nội dung bài
thuyết giảng mang tên “Adam, con ở đâu?” của mình, tôi trích dịch những đoạn
chính của bài giảng dưới đây:
“Người ta có thể nhớ bài thơ ngay tức thì. Nó có bốn khổ và được xây dựng theo
một kiểu giống nhau. Mỗi khổ thơ đều bắt đầu với chữ “tôi” không được chỉ định
rõ ràng. “Tôi” đây là ai? Đó là người hay là Thượng đế?…Thượng đế gọi những thứ
mà ngài đã tạo ra. Gió, mặt trời, các vì sao và con người được nêu tên. Ngài đã
gọi như thể một người chăn cừu gọi những con thú của mình, để biết chắc rằng
chúng vẫn còn ở bên ông. Một niềm lo lắng sâu xa, lo rằng một trong những tạo vật
của ngài lạc mất, vọng lên từ những câu thơ. Gió, mặt trời và các vì sao trả lời
ngay tức khắc: “Chúng con ở bên ngài”. Sự hoà hợp, cảm giác được che chở và thuộc
về nhau phát ra từ câu trả lời. Ngay cả ngọn gió phiêu lãng, thứ thường chẳng
thể nắm bắt được, và vũ trụ vô tận với những hệ tinh tú và thái dương cũng ở với
Thượng đế, sát bên ngài. Chính vì thế mà sự tách biệt của khổ thơ thứ tư càng
kinh khủng hơn: ta gọi con người
hãy trả lời ta
gọi – im lặng
không ai trả lời ta Thượng đế kiếm và gọi con người. Nhưng ngài không nhận
được trả lời. Không có được lấy bốn chữ: con người im lặng, mà chỉ là: im lặng.
Ôi, cả một sự trống rỗng, một sự nặc danh tàn nhẫn hiện diện ở cuối bài thơ.
Nữ thi sĩ đã sống đến năm 1964 ở CHDC Đức. Tôi không rõ là ở những vần thơ này,
Christa Reinig có còn trong đầu cái không khí vô thần của chế độ Đông Đức hay
là bà muốn ám chỉ cái tình trạng của con người ở Tây Đức. Trong mọi trường hợp,
nhất định bà đã có nghĩ đến một câu chuyện trong Sáng thế ký. Đó là câu hỏi đầu
tiên mà Thượng đế đã đặt ra trong Thánh Kinh: Adam, người ơi, con đang ở đâu?…” Ngoài
ra xin nói thêm, theo những gì tôi đọc được về Christa Reinig, thì trước khi trở
thành thi sĩ với xu hướng nữ quyền, đã có một giai đoạn – và giai đoạn này cũng
là thời điểm bài thơ “Gott schuf die sonne” ra đời – tôn giáo, bao gồm Thiên
chúa giáo và sau đấy là Phật giáo, đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong thơ của
bà.Dài dòng như thế vì muốn nói rằng kết luận của Thường Nhân, cho hai bài thơ
hoàn toàn giống nhau về tư tưởng, tôi e là có hơi vội vã. Theo thiển ý của tôi,
ngay cả khi ta chấp nhận lối diễn dịch của Quang Chiến, nếu phân tích cho kỹ
thì hai cái “tư tưởng” trong hai bài thơ chưa hẳn đã hoàn toàn giống nhau, còn
nếu hiểu như ông mục sư Stefan Mai, thì rõ ràng hai thứ này chỉ có thể làanh đi
đường anh tôi đường tôi, một đằng là tình yêu bao la của… Thiên chúa, còn
một đằng là những suy tư đầy tính thế tục hình như hơi có… định hướng xã hội chủ
nghĩa, có một tí gì như là muốn rao giảng đạo đức. “Hỏi” – tôi nhấn mạnh: hỏi chứ
không phải là gọi – theo kiểu của ông Hữu Thỉnh thì theo tôi chỉ có một
câu trả lời mà thôi. Sau khi ông hỏi đất, hỏi nước, cây cỏ và nhận được những
câu trả lời khá mẫu mực của bọn chúng, thì, mặc dù ông (thống thiết) hỏi đến ba
lần, câu trả lời của con người cùng lắm chỉ có thể là: người với người sống
để yêu nhau. Chứ nếu không thì… thật đáng xấu hổ với loài cây cỏ. Ta cũng khó
có thể chối bỏ là lúc mới thoạt đọc – nhất là nếu sử dụng bản dịch của Quang
Chiến – thì thấy hai bài thơ có cái gì đó na ná nhau. Nhưng từ “na ná” cho đến
“đạo thơ” tôi nghĩ là có một quãng cách dài. Tôi đồ rằng, nếu ta không tính mấy em
nhỏ của nhóm Mở Miệng – bọn hắn không chút ngượng ngùng khi công
khai nhìn nhận là đã “đạo” và “chế biến thơ ca” của người khác –
thì chắc không có một ông hoặc bà thi sĩ nào chịu nhìn nhận là thỉnh thoảng thơ
của mình hình như có hơi giống thơ của một ai đó khác. Nhưng tôi ngờ rằng nếu
đem tất cả thơ Việt tự cổ chí kim ra mà xét thì chắc cũng có khối bài “na ná”
nhau. Ta có thể bị ảnh hưởng Tàu, rồi Tây, và Ta cũng có thể bắt chước Ta, tự
nguyện hay là vô thức. Tôi biết rằng ở thời điểm này, ông Hữu Thỉnh, qua vụ
phát giải thưởng thơ cho ông của cái Hội do chính ông làm Chủ tịch, đã gây phật
lòng ở nhiều người. Quả thực thì cũng là điều khó hiểu, khi một người ở cương vị
ông và cũng là người đã từng nhận được mấy cái giải thơ tương tự như vậy, và
ông lại là thi sĩ, chủng loài thường tự nhận là có cần ăng-ten tinh nhạy nhất,
lại tỏ ra thiếu hẳn một chút nhạy cảm tối thiểu khi không tự giác rút tập thơ của
mình ra, không để cho đồng nghiệp và những người dưới trướng của mình bình xét.
Điều này có dính dáng gì không với cái câu người ta thường nói: Quyền lực làm
hư hỏng? Tôi chưa đọc tập thơ mới của ông để biết kết quả ông thương lượng
với thời gian là như thế nào; nói chung ra thì tôi không đọc thơ của ông
nhiều, trừ một tập thơ trong đó có trường ca Đường tới thành phố do một
anh bạn đi Việt Nam về tặng vào giữa những năm 80. Hiểu biết về thơ ông hình
như chỉ còn đọng lại trong tôi vài câu thơ chắp vá đại loại Biển vẫn cậy
mình dài rộng thế/Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn hoặc Một mình một
mâm cơm/Ngồi bên nào cũng lệch và một bài hát người ta phổ thơ ông, từ cái
thời mà bọn chúng tôi, những kẻ tự nhận mình là yêu nước, đã tự nguyện ô-rơ-voa
(mà sau cơn bồng bột thì cũng có rơ-voa thật, nhưng đấy là chuyện về sau…) những Mùa
thu chết với lại Diễm xưa để hát khản cả giọng những bài ca cách
mệnh đại loại Nổi lửa lên em và Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn
tây. Và dĩ nhiên là trong top ten không thể thiếu bài Năm anh em
trên một chiếc xe tăngphổ thơ của cụ. Trước khi chấm dứt bài viết, và để thay đổi
không khí, cho phép tôi hát… góp vui cho quí vị nghe nhé, xin lưu ý là bài này
phải hát theo điệu quân hành và những chỗ luyến láy thì theo giọng Hà Tĩnh hay
tệ lắm cũng phải là Thừa Thiên thì nghe mới phê: Năm anh em trên một chiếc
xe tăng
Như năm bông hoa nở cùng một cội
Như năm ngón tay trên một bàn tay
Đã xung trận là năm người như một
Ừ… hứ
Vào lính xe tăng anh trước anh sau
Cái nết ở ăn mỗi người một tính
Nhưng khi hát là hoà cùng một nhịp
Một người đau là tất cả quên ăn… Thế mới biết là cộng sản tuyên truyền…
hay thật, mấy chục năm sau mà câu chữ cứ như còn in trong đầu.
Đấy, quan hệ “sâu sắc” nhất giữa tôi và Hữu Thỉnh chỉ có ngần ấy, chỉ qua một
bài hát, không hơn không kém, nghĩa là chưa có mặn mòi quá đáng để đến nỗi tôi
thiên vị, không chịu nhìn ra cái chất đạo thơ ở ông.Tôi nghĩ: Đánh giá thơ, và
không chỉ có thơ, cần sự công bằng và trung thực.
12.11.2006
(Sưu tầm-Hội ngộ văn chương)