Thơ “nhập đồng”?
Dàn “tụng ca”
Hơn 10 năm trước, ở vùng cực
nam của đất nước bỗng nổi lên tên tuổi của nhà thơ Hùng Anh. Hồi ấy, cùng với
việc được đọc một số bài vở người ta sản xuất để tán dương nhà thơ này,
tôi còn được xem trên vô tuyến truyền hình cảnh nhà thơ ngồi thuyền lướt sóng
và… hát cải lương! Vậy mà đúng vào lúc nhà thơ đang “lên hương” trên thi đàn
thì ông “xộ khám”, và từ đó tên tuổi của ông cũng mất hút luôn. Chỉ
thương cho 1 tuyển tập thơ phải xé mất mấy trang đầu, vì xếp theo vần
tên tác giả thì tác phẩm ông chỉ in sau “lời giới thiệu”!
Cũng khoảng thời gian này,
thi đàn còn rộ lên lời tán dương thơ của Nguyên Linh- 1 vị Thứ trưởng. Có
người viết báo kể rằng đã gặp ở sân bay Nội Bài 1 người Việt ở nước ngoài mua cả
trăm tập thơ của vị Thứ trưởng, về cho con cháu đọc để đừng quên quê
hương. Rồi có người đưa tôi hơn 10 tập thơ của ông kèm theo lời mời đến rừng
Cúc Phương đốt lửa trại để bình thơ. Và tôi từ chối, vì không có ý định tham
gia vào một dàn tụng ca. Sau đó trong 1 bài viết, tôi đặt câu hỏi: “Không biết
đến khi ông Nguyên Linh về hưu thì người ta có ca ngợi thơ ông nữa không?”. Câu
trả lời đã có ngay sau khi vụ án Lã Thị Kim Oanh kết thúc. Ông Thứ
trưởng rời nhiệm sở, cũng từ đó, chẳng còn mấy ai nhắc tới thơ ông! Viết đến
đây, tôi lại nhớ ngày nhà thơ Vũ Duy Thông còn làm Vụ trưởng Vụ Báo chí. Ngoài
việc in thơ quanh năm, mỗi độ tết đến xuân về là thơ ông lại tràn ngập trên báo
tết.
Ngày đó trong 1 bài viết, tôi
nhận xét cứ sau mỗi dịp tết là ông Vũ Duy Thông có thể in 1 tập thơ dày, và tôi
đặt câu hỏi: Rồi đây, khi ông không còn đương chức, thì có báo nào in
thơ Tết cho ông nữa không? Câu trả lời chẳng phải tìm đâu xa, mấy năm
nay, lật các trang báo tết, tôi thấy vắng bóng thơ của Vũ Duy Thông!
Liệt kê mấy sự kiện như vậy
vì qua đó tôi muốn nói rằng lâu nay, hễ thấy có sự ồn ào tán dương thơ của
một tác giảnào đó là tôi lại nhắc mình cần tỉnh táo để không bị cuốn vào sự
ồn ào của mấy điều trong thơ, ngoài thơ. Với Hoàng Quang Thuận cũng vậy, cùng với
thơ của ông, tôi còn quan tâm tới vài điều “thần bí” mà tác giả cùng một vài
người đã xây dựng xung quanh sự ra đời của những bài thơ. Chuyện bắt
đầu từ năm 2009, khi nhà thơ Dương Kỳ Anh đăng bàiNgười có thơ gửi dự giải
Nobel văn học trên báo Tiền Phong. Đọc bài này tôi nghĩ, tác giả gửi tác
phẩm dự giải là chuyện bình thường, ai hứng chí và tự tin về thơ của mình đều
có thể gửi, vậy có gì đáng phải quảng bá. Chẳng nhẽ một người làm thơ trở nên nổi
tiếng chỉ vì đã gửi tác phẩm dự giải Nobel?
Về những điều “trong thơ”
Dù chưa có may mắn được đọc
toàn bộ các bài thơ do Hoàng Quang Thuận sáng tác, chỉ căn cứ vào những bài
đã đọc và qua những nhan đề tỷ như: Tháp Báo thiên, Thành cổ, Cung điện
triều Đinh, Cố đô Hoa Lư, Trăng Yên Tử, Đền Phủ Khống, Chùa bà Ngô, Danh sơn
Yên Tử,… tôi vẫn xin nói ngay rằng, đó là mấy bài “thi ký” rất yếu về ý tưởng lẫn
cách thức tổ chức bài thơ, cách thức sử dụng ngôn từ… Nếu thực sự “tiền nhân mượn
bút” của Hoàng Quang Thuận để “viết thơ” thì xem ra thơ của “tiền nhân” đã sa
sút đến mức thê thảm!Dù tác giả làm nhiều bài thơ tứ tuyệt, hoặc ghép 2 bài tứ
tuyệt thành 1 bài thất ngôn bát cú cho có dáng dấp Đường luật, thì
ngay cái việc cố gắng ép vần cũng đã đưa lại ý tứ khôi hài. Ví như: “Hoa Lư
kinh thành của Đế vương/ Mây bay phủ núi lụy biên cương/ Hoàng Long dậy sóng
ngàn năm ngủ/ Long Mã truy phong thượng đạo đường”. Tôi nói là khôi hài vì
không hiểu tại sao hình ảnh “biên cương” lại xuất hiện ở Hoa Lư, chẳng lẽ nước
ta thời Đinh Tiên Hoàng lại… bé xíu như thế? Tương tự, đọc khổ thơ: “Dựng xây
cung điện đế triều nghi/ Định đế xưng vương lập thành trì/ Đại Hoàng cổ Việt
Trương Yên phủ/ Hào sâu núi hiểm bất khả tri” tôi thấy buồn cười, vì tôi không
biết “đế triều nghi” là cái món gì, càng không hiểu tại sao lại “bất khả tri”
(không thể biết)?Tôi nghĩ, chính thao tác ép vần đã đưa tới sự khôi hài này, vì
thế tôi xin được ngả mũ trước điều 1 tác giả viết: “Với một nghệ thuật Đường
thi trác việt như vậy, nó đã đủ đưa Hoa Lư thi tập vào với cõi lòng độc giả”. Với
các bài thơ chưa đúng niêm luật, lại sáng tác từ cuối thế kỷ XX đến nay mà được
gọi là “nghệ thuật Đường thi trác việt” thì đúng là hết thuốc chữa!
Nhân đây, cũng xin đề nghị ai
đó thử tìm ra cái hay, cái nên thơ trong 1 khổ thơ của Hoàng Quang Thuận: “Bậc
đá làm thang giỏi thợ trời / Đá hình cá sấu nằm chơi vơi / Cá voi, ếch ộp, thờn
bơn dẹt / Biển cả – đại dương giữa lưng trời”! Tuy nhiên, điều tôi muốn nói là
kết luận của một số tác giả phát hiện từ thơ của Hoàng Quang Thuận. Đó là “chất
thiền”, là “không gian thơ thiền”, “sự kết nối thơ thiền xưa và nay”, “hơi thở
của thiền học đã thấm nhuần vào cảm hứng trinh nguyên”…
Tôi coi đây là gán ghép
khiên cưỡng, là sự đánh đồng kỳ quặc giữa cảm quan Phật giáo trong một số bài
thơ của Hoàng Quang Thuận với thơ Thiền. Tôi đồ rằng khi viết ra điều đó, người
viết cũng chưa hiểu Thiền là gì, thơ Thiền là gì. Tỷ như khi tôi đọc xuôi rồi lại
đọc ngược bài Chất “thiền” trong thơ Hoàng Quang Thuận mà tuyệt nhiên không thấy
bất kỳ 1 câu chữ nào chứng tỏ đâu là “chất thiền” trong thơ của Hoàng
Quang Thuận.
Xin chớ nghĩ hễ trong bài thơ
có hình ảnh chùa chiền, non cao, bóng núi, cây đa, mây trời, trăng treo, tiếng
hạc,… là bài thơ sẽ có “chất thiền”. Xin hãy hiểu rành rẽ về Thiền và thơ Thiền
rồi hãy viết, kẻo lại rơi vào cảnh ngộ “vẽ rắn thêm chân”!
Trong trả lời phỏng vấn nhan
đề GS Hoàng Quang Thuận: “Tiền nhân mượn bút tôi viết thơ” đăng trên eVan, khi
được hỏi: “Nhiều nhà phê bình gọi thơ ông là thơ Thiền. Thế nhưng với người
bình thường đọc qua sẽ thấy giống như thể thơ du ký, thơ tức cảnh sinh tình xuất
hiện khá nhiều trong đời sống văn học hiện nay. Ông thấy thơ mình khác với nhữngbài
“thơ du ký” ở điểm gì?”. Ông Hoàng Quang Thuận trả lời: “Những bài thơ du
ký là bài thơ làm về con người thực, địa danh thực do họ nhìn thấy, cảm thấy,
còn tôi du ký trong 1 đêm sương gió, trong 1 đêm huyền ảo, du ký trong tâm tưởng”.
Quá hay nếu đúng như vậy, nhưng tiếc là, dù tác giả có “tô
son” cho thơ mình thế nào thì các địa danh thực trong nhan
đề các bài thơ, tự chúng đã cho thấy chất “thi ký, tức cảnh sinh
tình”, mà tình cũng đâu có gì sâu sắc. Điều này, dẫn tôi tới vấn đề thứ 2 của
thơ Hoàng Quang Thuận.
Về những điều
“ngoài thơ”
Tôi không rõ Hoàng Quang Thuận
được khai tâm – hoằng pháp từ khi nào, song căn cứ vào những gì
ông kể thì xem ra, sự “đốn ngộ” của ông đã nhanh chóng thấu đến cõi của “tiền
nhân”. Chẳng thế mà hàng trăm năm nay, “tiền nhân” không chọn ai, lại chọn đúng
1 ông Giáo sư- Tiến sĩ để “giáng bút”. Và tôi kinh ngạc vì thấy vào thời buổi
văn minh phát triển như ngày nay, 1 GSTS lại có thể kể một cách rất tự tin về 1
câu chuyện nhuốm màu hoang đường không khác gì điều kỳ bí của mấy ông bà “thần
lô, thánh đề”.
Chuyện của GS TS Hoàng Quang
Thuận còn được phụ họa cứ như là truyền kỳ: “Ngay bìa cuốn sách độc bản này
cũng thật lạ. Trong lúc kiếm tìm khắp nơi, tôi vẫn không tìm được chất liệu
thích hợp để làm bìa sách, thì một người bạn khoe có miếng gỗ loại đó nằm trong
kho suốt 22 năm nay, kích thước lại vừa đúng kích thước tôi cần.Mừng quá, y như
là sự sắp đặt của ông trời! Lại nữa, sau khi cất công tìm kiếm được một nơi xén
sách cỡ đại, chúng tôi đưa bộ sách lên xe bò để đi xén thì trời bỗng nổi giông
và mây đen. Sợ quá, vợ tôi liền kêu 1 xe ô tô 7 chỗ để chở và kỳ lạ thay khi
chuyển sách từ xe bò sang ô tô thì mây tan, trời bừng sáng lên”. Nếu thực sự là
một nhà khoa học, ông Hoàng Quang Thuận cần thực chứng về câu chuyện của mình.
Kể cũng lạ, không biết tại
sao trong khi tự gửi tác phẩm dự giải Nobel, tự đề cử tác phẩm vào Danh mục di
sản tư liệu thuộc chương trình Ký ức thế giới, GSTS Hoàng Quang Thuận lại không
gửi tác phẩm tham dự kỷ lục Guinness ở mục người làm thơ nhanh nhất thế giới?
Chẳng lẽ ông e ngại ở đó người ta không tin có người trong thời gian hơn 4 giờ
đồng hồ lại viết được tới 121 bài thơ, tức là chỉ mất có 2 phút để viết 1 bài?
Tôi nghĩ, không chỉ với một ông GSTS, mà bất kỳ người nào bỗng dưng
khoái lập kỷ lục về thơ cũng sẽ hành xử như vậy. Logic tất yếu của kỷ lục là sử
dụng thủ pháp “thần linh mách bảo”!
Riêng câu chuyện kỳ bí về con
rắn “trên đầu có chiếc mào màu đỏ” vì được ông phóng sinh đã “ngỏng cao đầu gật
3 cái như chào trước khi bò vào rừng”, rồi ngay sau đó trong 3 đêm ông viết được
143 bài thơ thì xin miễn bàn. Vì theo tôi, đây là câu chuyện nằm ngoài phạm vi
hoạt động của các trí tuệ tỉnh táo.
Bắt chước ông, và cũng muốn
chứng minh bài viết này là xác đáng và cần thiết, tôi mạn phép được bịa ra rằng,
đêm qua trong giấc mơ, “tiền nhân” đã hiện lên và bảo tôi: “Này Nguyễn Hòa con
ơi, con cần phải viết ngay một bài về “hiện tượng thơ Hoàng Quang Thuận”. Chớ để
hậu thế làm hỏng thơ ta”! Tôi nghĩ, phải là người tự tin lắm GSTS Hoàng Quang
Thuận mới có thể tự gửi tác phẩm dự giải Nobel, rồi tự đề cử tác phẩm vào Danh
mục di sản tư liệu thuộc chương trình Ký ức thế giới. Hẳn cũng là một tín đồ
Narcissisme có hạng nên ông Hoàng Quang Thuận mới có đủ bản lĩnh để sản xuất một
tập thơ nặng 54 kg được báo chí mệnh danh là “sản phẩm văn hóa có giá trị lịch
sử” để đặt tại Bảo tàng Hà Nội đang trống huơ trống hoác!
Tuy nhiên, dù tác giả có kể những câu
chuyện kỳ bí và cố gắng quảng bá thơ mình, dù bài viết của các ông Dương Kỳ
Anh, Ngô Văn Phú, Trần Thế Tuyển,… sâu sắc đến đâu, dù không biết “tiền nhân”
đã “mượn bút” GSTS Hoàng Quang Thuận để “viết thơ” là Hùng Vương, là Đinh Tiên
Hoàng, Lý Thái Tổ, Trần Nhân Tông hay là các cụ Vạn Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Trung,
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,… thì rốt cuộc, văn bản thơ của Hoàng Quang Thuận vẫn là
cơ sở cuối cùng để đánh giá.
Từ phương diện này mà nói, cần
ghi nhận GSTS Hoàng Quang Thuận là người chăm chỉ làm thơ. Còn tài năng ư? Trác
việt ư? Có lẽ đó không phải những phẩm chất dành cho người
làm thơ này.
Nguyễn Hòa (Nguồn: http://tuanvietnam.net)